Chủ Nhật, 13 tháng 9, 2009

TẢN VĂN CỦA ĐÀO TẤN TRỰC

Buổi sáng ở ngoại ô Sài gòn

Hè, tôi lưu chân ở Sài Gòn một tháng. Sự hào phóng của đất và người trên hòn ngọc phương nam đã cho tôi nhiều kỉ niệm.
Tôi trọ nhà anh bạn trong con hẻm nhỏ trên đường Kha Vạn Cân. Nhà quay mặt ra sông Sài Gòn đục ngầu nhưng đêm về trở nên huyền ảo, thơ mộng bỡi ánh đèn đô thị phản ngược lập lòe mang chút cổ xưa giữa lòng thành phố hiện đại. Khu trọ ở sâu tận cùng con hẻm, có đến vài chục phòng, người khắp ba miền làm nhiều nghề như giám đốc, tiến sĩ, giáo viên, nhà báo, công nhân, thợ xây, giúp việc, giữ trẻ và hình như có cả gái điếm. Xung quanh khu nhà có một vạt đất trống nhiều cỏ tranh loang lỗ đan xen vài cây ăn quả cạnh vườn mai xuân không người chăm sóc. Cảnh giống nông thôn. Có lẽ, cả Sài Gòn chỉ còn chỗ này “giàu có” như thế.
Ban ngày, cả khu trọ nằm im thin thít. Người đi vắng. Họ đi làm và trở về nhà khi đêm đã khuya. Hình như cuộc sống đô thị cuốn hút con người theo vòng xoáy, hết giờ này đến ngày kia. Khu trọ chỉ rộn ràng lên được một lúc sáng sớm. Đó là bóng dáng anh giám đốc kia phơi áo quần cho vợ, chị vợ nọ hối chồng chở đi làm…và đôi lúc có cả tiếng cãi vã của đôi vợ chồng bên cạnh về chuyện tiền nong, công việc. Trong số những người chung xóm trọ, tôi nhớ nhất vợ chồng anh Khôi chị Thúy thợ xây, quê Long An.
Anh Khôi và Thúy xa quê lên Sài Gòn lúc 15 tuổi. Miền đất hứa đã cho mọi người nhiều cơ hội nhưng với anh Khôi chị Thúy đến giờ vẫn hoàn tay không. Lận đận kiếm cơm, thế mà anh chị vẫn tốt nghiệp cấp 3. Giấc mơ vào giảng đường của hai người không vượt được hoàn cảnh. Rồi duyên trời run rủi, anh chị thành đôi, thành người Sài Gòn gần mười năm nay. Ban ngày, hai vợ chồng đi xây, tối anh phải ra sông Sài Gòn thả cá, rà lươn để có thêm thu nhập. Những con cá lóc, con lươn anh mang về mập ú. Mỗi sáng, chị mang ra đầu con hẻm ngồi bán. Người tiêu dùng thích “của trời”, chị ngồi chưa được 20 phút, rổ lươn đã hết sạch.
Những ngày tôi vào, công trình anh đình công vì chưa có giấy phép xây dựng, ban ngày anh ở nhà. Anh đãi tôi món miệt vườn anh tự nấu. Tính xởi lởi của người miền nam ghi dấu ấn khá rõ trong từng lời ăn tiếng nói. Lịch sự nhưng không dè dặt kín đáo, lễ nghĩa nhưng không quy cách như người miệt ngoài. Cảnh vợ mua rượu, ngồi nói chuyện để chồng lai rai không lạ gì. Cuộc sống xoay với bao điều chưa nói hết giữa đô thị hiện đại mà vợ chồng anh vẫn vô tư thư thả giữa đời thường. Cả hai bây giờ dù chưa giàu có, không cội rễ nhưng với chừng ấy năm anh vẫn là người Sài Gòn trong cách nhìn của tôi. Tôi ngưỡng mộ vì họ giống những người tôi từng mến mộ: nghèo, khát sống và ước mơ. Khổ nỗi, niềm tin không vật nổi hiện thực, họ là những người tốt, mấy ai biết.
Ngoài sự hối hả tất bật của cuộc sống, phong cảnh buổi sáng ở ngoại ô Sài Gòn giống một miền quê đích thực. Vừa chợp mắt đã nghe tiếng con trùng thức giấc, tiếng khứu, tiếng chim chìa vôi hót vang, tiếng gió xạc xào trên những tán dừa trước hiên, cánh hoa mận rơi trước sân… Nắng lên, từng đôi chim sẻ vào tận sân nhặt sạn, nghe cửa động, chúng bay vù lên cây trứng cá rỉa lông, chuyền cành. Bên ngoài, bươm bướm chập chờn trên từng bông cỏ…Tất cả đều không như sự thật, chắc rằng sẽ lưu vào trí nhớ nếu ai thư thả hòa mình với cuộc sống.
Nếu như sự bức bối chật chội tốc độ nằm trong trung tâm thành phố thì bên này vòng cung sông Sài Gòn đã cho một miền đất nhiều cảnh đẹp. Ở đây có sông nước, nhà vườn, quán bình dân và còn cả những con người rộng lòng sau những giờ làm ăn mệt nhọc. Tôi sợ một ngày nào đó đô thị sẽ phình to, lấn át cả vùng ngoại ô Sài Gòn nên thơ hữu tình, nơi tôi đã từng đặt chân đến rồi đi.
Theo Báo Du Lịch TP. HCM
ĐTT

Thứ Ba, 26 tháng 5, 2009

THƠ ĐÀO TẤN TRỰC

Thương ngườiquan họ
Tặng : Cao Nhật Quyên

Xuôi Nam một chuyến đò ngang
Gửi câu Quan họ lại ngàn dặm xa
Người về xứ biển quê ta
Bước qua quán Dốc xót xa lặng thầm

Quai thao nón lược tay cầm
Mấy năm khăn gói quê chồng mù khơi

Lạ người lạ đất lạ nơi
Nghĩ thương dáng mẹ xa xơi một mình…

Lần theo câu hát sân đình

Khi nghe đài nhắc quê mình hội Lim
Lỗi người Quan họ đi tìm
Bóng hình xưa đã khuất chìm phương Nam.

Lỡ thì
Gánh sen để trước sân chùa

Váy đụp bốn mùa chị bán chợ xa
Chiếu chèo vướng bận lời ca
Trai làng xuôi gió giờ ra thị thành
Cũng đường đất đỏ mong manh

Chị đi như thể vòng quanh đời mình
Đi chưa hết một cuộc tình
Một ngày quay lại nhận mình chân không
Lục bình nở phía bờ sông

Mùa xuân mấy độ qua không đợi mùa
Gánh sen để trước sân chùa
Chị vào xin cái lá bùa bình yên.

ĐTT

TRANG ẢNH LỚP 12C (2008 - 2009)



ÔNG THẦY CHÚC CÁC EM MAY MẮN VÀ THÀNH ĐẠT

























TÁC PHẨM HỌC SINH 12C


TRƯỚC MÙA CHIA TAY
Có một thời đi học để thương
Có thân thiết bạn, thầy xưa để nhớ
Có lỗi lầm ngu ngơ mắc cỡ
Có dại khờ để được lớn khôn thêm…

Tia nắng xuyên qua ô cửa êm đềm
Ánh mắt ai lung linh hoài kí ức
Trang lưu bút tím thơm mùi mực
Luôn nhắc mình…tên bạn cũ đừng quên

Lỗi ai đâu mà năm tháng bắt đền
Cho tiếng ve đẫm ướt mùa hoa phượng
Kỉ niệm dài như dòng sông hoài niệm
Rồi một ngày hoa nắng sẽ về đâu

Phượng vẫn cười trong nắng thơ ngây
Nhưng sao tôi nhói đau trong lòng ngực
Trường quen ơi…mai xa người có biết
Trước nhũng cơn mưa xin nhớ gọi nhau về.

Nguyễn Thị Mười, 12B4 (2008-2009)
THPT Lê Thành Phương, Tuy An, Phú Yên




KỈ NIỆM NHỎ

Bước chân qua ngôi trường thân thuộc
Nơi hàng dừa vẫn lặng đứng bên sân
Cây bàng già qua bao mùa thay lá
Đón hè về khi ve hát yêu thương

Cánh phượng ru ngàn hoa thay áo mới
Mãi trong tôi bao kỉ niệm êm đềm
Tuổi học trò sao hồn nhiên quá nhỉ!
Thư tình ai màu mực đó chưa phai

Đây lớp học đã một thời ghi nhớ
Bục giảng này thầy đã gọi tên tôi
Tôi sợ quá chân run bài chẳng nhớ
Để ai ngồi khẽ nhắc điểm chia hai

Lớp học đó… thân tình sao đi vội
Tuổi trăng tròn ấp ủ mộng thần tiên
Bạn cùng trường nhìn tôi đầy vụng dại
Vẫn lặng thầm rồi cứ mãi bâng khuâng.

Nguyễn Thị Hồng Thấm
12C(2008-2009) THPT Lê Thành Phương. Tuy An. Phú Yên.

THƠ PHAN HOÀNG KHÁNH


Nhớ Quê Mùa Mưa Lũ

Mấy hôm rồi quê mình mưa mãi không thôi
Chiều nay trên đài báo tin lại có bão
Rồi những hôm thức đêm sầu não
Thương quê mình nhưng chẳng biết thế nào.

Lũ bạn đồng hương mắt cứ đỏ hoe
Đã khuya rồi nhưng chẳng đứa nào muốn ngủ
Ngồi tụm lại mà hướng về đất cũ
Không biết bao giờ mới hết khổ đau.

Chiếc di động được chuyền tay nhau
Đứa nào cũng nao long muốn biết tin tức
Nhưng chỉ nhận được bản tin vô thực
“Không thể nào kết nối với thuê bao”.

Thương quê mình luôn lận đận, lao đao
Lại phải gánh chịu những tháng ngày bão lũ
Ở phương xa…
Căn phòng trọ lại những đêm không ngủ
Thổn thức cùng nỗi nhớ quê nhà!




Quên

Tôi để quên nắng chiều, trên cánh đồng lúa chín
Cho mẹ về nặng trĩu đôi vai
Tôi để quên khúc sông mùa nước nổi
Nặng tay chèo ba chở những yêu thương.

Tôi quên mái tóc dài, thì thầm trong gió thoảng
Chiều hương dừa bát ngát xa bay
Để quên cả những nhọc nhằn của mẹ
Chạy gạo từng lon nuôi tôi nên người.

Tôi quên đi những tháng ngày vụng dại
Lũy tre làng nuôi tôi lớn khôn
Quên con đường ngoằn ngoèo xanh mướt
Cùng lũ bạn đùa vui dưới ánh trăng.

Tôi quên đi vị ngọt của đất
Bìm bịp kêu chiều, khói đốt đồng cay
Để quên cả những ngày hè chát nắng
Tiếng râm ran của chàng nhạc sĩ buồn
.
Phan Hoàng Khánh
Địa chỉ: Bưu Điện Huyện Đông Hoà – Phú Yên
ĐT: 0914690609
Email:
hoangkhanhpy@gmail.com


Thứ Tư, 20 tháng 5, 2009

TẢN VĂN CỦA ĐÀO TẤN TRỰC



Cây thị đầu làng
Tuổi thơ tôi gắn với từng kỉ niệm ngọt ngào nơi làng quê.Từ buổi sáng tinh sương đến từng buổi chiều bảng lảng tiếng hoàng hôn, kỉ niệm đều in hình thành những nét rất riêng - ghi dấu ấn của một vùng đất trong tiềm thức, trong sáng và tươi nguyên - mà sau này có đôi lúc giật mình thảng thốt, nó trở thành kí ức dai dẳng theo ta đến suốt một đời.
Những năm đầu thập niên 80 của thế kỉ trước, làng tôi còn nghèo. Ban ngày, cả làng thường đi làm đồng vắng, chỉ còn lại các cụ già và đám con nít tụi tôi. Tuổi thơ chúng tôi thường vây quanh nơi gốc cây thị cụt đọt đầu làng trò chuyện, nô đùa, chơi trò đuổi bắt. Có hôm, tôi và đứa bạn trốn sâu trong một hốc cây nên cả nhóm chẳng đứa nào tìm ra… Bóng cây sừng sững, che bóng mát cả một vùng đất trống, che cả tiếng cười giỡn nô đùa hú hí của tụi tôi; lúc tốt trời, âm thanh đó vang tận vào chân núi trong cánh đồng rồi vọng ngược trở ra như âm vang thần thánh..
Cây thị gắn với tên đất tên làng nhưng cây có tự đời nào không ai biết. Chỉ biết từ những năm đánh Mĩ, nơi đây từng là một trong những địa điểm bí mật của cách mạng, cây đã từng chứng kiến nhiều sự kiện quan trọng của xóm làng. Rồi khi địch phát hiện, chúng đem bom ném xối cả vùng, cũng may bóng cây chỉ bị thương và cụt đọt; vết thương trên thân cổ thụ nhanh lành rồi cây sống cho đến bây giờ. Sau ngày đất nước thống nhất, dân làng về đây đoàn tụ đông đủ, cây dường như cũng trẻ lại và xanh tốt hơn. Gốc cây dễ chín mười người ôm không hết để lộ chùm rễ to bạnh phủ kín cả mặt đất như những con trăn khổng lồ đen trũi. Sang mùa quả chín, hương thơm theo gió bay ngát cả làng. Tôi và đám bạn thường dối mẹ, từ sớm, tranh thủ đi lượm trái thị chín rụng qua đêm. Suốt mùa thị chín, tôi và Nhân là người đứng đầu về số quả và hạt thị nhặt được . Quả thị chín có mùi thơm dễ chịu, hương bay xa, theo gió sang tận bên kia làng.
Gốc thị đầu làng cũng là nơi diễn ra lớp học đầu lòng của lứa tụi tôi. Lúc đó, quê còn nghèo. Chưa có mái trường nên chúng tôi tạm ngồi dưới bóng cây nghe cô giáo dạy hát múa và cầm tay tập cho những nét chữ ê a đầu đời. Đang mùa thị chín, có lúc quả rơi từ trên cao xuống, cô nhặt lên như môt bà tiên thật hiền mà sau này nghe thầy cô kể tôi mới hình dung được điều đó có trong cổ tích. Lẫn trong tiếng gió vi vu, hương thị nồng nàn, tiếng cô trò vọng lại nghe thân thương đầm ấm khó quên.
Cây thị đầu làng còn là nơi tụ họp vui chơi sinh hoạt hay buôn bán với vài đôi quang gánh trong làng. Mặc dù cuộc sống trăm nổi nhọc nhằn nhiều bộn bề lo lắng nhưng bà con xóm làng vẫn vồn vã vui tươi, nhất là những ngày hội làng hay những đêm sáng trăng. Bóng cây uy nghi linh thiêng che chở bảo bọc cho dân làng cả về đời sống tâm linh lẫn cuộc sống thường nhật. Nỗi buồn hay niềm vui được mùa cũng cậy vào bóng cây mà cần cù vượt qua khó nhọc, đi lên.
Thời gian cứ bình lặng trôi đi, tôi lớn dần lên và lớp học vỡ lòng cũng bình yên trôi vào dĩ vãng. Gửi làng quê yêu dấu lại với bạn bè, cô giáo và cả gốc thị đầu làng, tôi đi xa. Không ngờ mỗi lần ra đi lại là mỗi lần xa cách. Cuộc sống tất bật đã làm cho con người quên đi nhiều thứ, trong đó có một phần của quê hương, dần già quê hương đã trở thành kỉ niệm trong tâm thức của mỗi người con ra đi.
Tết vừa rồi, tôi trở về. Bây giờ làng quê đã thay đổi nhiều. Đứng trên con dốc đầu làng nhìn xuống trông xóm nhỏ năm nào như một thị trấn. Chen với từng mái ngói đỏ tươi, nhiều ngôi nhà sang trọng và những làn dây điện dọc ngang như có chút gì hiện đại. Rất mừng cho quê hương đã thay đổi, đi lên theo sự phát triển chung của đất nước. Tôi hối hả tìm về một thời đã lâu nhưng bạn bè một thuở đã đi xa chưa về. Cô giáo cũ năm nào nay đã lớn tuổi, đang chống chọi lại căn bệnh tuổi già với khí lạnh cuối mùa miên man sắp qua và cái nóng ran rát miền trung sắp về. Và em, cô bạn thân nhất của tôi ngày nào bây giờ cũng biền biệt quê chồng mù khơi; nghe đâu lâu rồi cô cũng chưa trở về thăm cha mẹ, bạn bè. Tôi rảo bước sang đầu làng tìm về hướng cây thị năm nào nhưng không thấy bóng cây đâu. Người ta đã chặt nó vì một lí do gì không biết, xây lên một cái cổng làng văn hoá nho nhỏ để bên trên dư ra một khoảng không gian làm xốn xang cả một vùng kí ức tuổi thơ!
Không biết những người sau lứa tụi tôi bước chân qua khỏi cổng làng có còn nhớ về quê hương với những kỉ niệm ngọt ngào như chúng tôi đã từng nhớ hay không.

DTT

Thứ Năm, 7 tháng 5, 2009

TẢN VĂN CỦA ĐÀO TẤN TRỰC


Sinh nhật mùa ( Cho các em học trò 12 thân yêu)
Bao nhiêu năm gắn với màu hoa phượng sân trường, tôi chợt nhận ra rằng thời gian cũng có tuổi như con người. Từng giờ, từng ngày mùa tuần hoàn đến, ở quanh ta rồi đi. Mới hôm trước đây, mùa xuân hoa mai vàng hé nụ, chim én bay về sau tiết lập xuân, cây phượng góc sân trường đâm chồi nảy lộc thì hôm nay trên cành cao lộc non đã xanh và bắt đầu điểm một màu đo đỏ bé tí.
Hạ sang rồi nhưng ngôi trường vẫn im lặng như mùa đông. Các em đang miệt mài bài vở để chuẩn bị “vượt vũ môn hoá rồng” hay vô tình không thấy những chùm phượng kia! Tôi tin chắc rằng các em là người phát hiện đầu tiên, phải không! Phượng hé nụ là tín hiệu, là sinh nhật mùa đấy các em à. Ta thử hỏi rằng mùa đã bao nhiêu tuổi. Khó và không tìm được câu trả lời chính xác nhưng biết rằng mỗi năm mùa cũng thêm một tuổi như con người.
Bây giờ, phượng cho hoa. Từng chùm phượng bắt đầu đỏ dần dưới ánh nắng hè trông như từng ngọn nến trong đêm sinh nhật.. Ngàn bông hoa hoá ra mùa đã trên ngàn tuổi, hèn chi gốc cây rễ xù xì đụn lên như những con rắn khổng lồ mà lũ học trò hay ví von hù nhau khiếp sợ. Không phải thế đâu, phượng thật đáng yêu và có lẽ yêu hơn người ta tưởng.
Lúc mới bước chân vào lớp mười, các em còn nhút nhát. Chính chỗ này, gốc phượng này các em đã ngồi để ngắm cảnh sân trường cấp ba. Chao ôi, lạ quá, khác quá và cũng bình thường quá! Trường học có khác gì dưới cấp hai mà sao các em hay tưởng tượng và ngơ ngẩn đến nỗi lạ kì. Bộ óc con người thông minh và phong phú nhiều lúc làm cho người ta hơi bị thất vọng không ngờ. Nhưng không đâu: từ nơi này các em khép nép rồi làm quen; từ nơi này các em có thêm bạn bè và thầy cô mới; từ nơi này các em quen dần và xem như ngôi nhà của mình mỗi khi đến trường và cũng từ nơi này chúng ta có bao kiến thức cần thiết để chuẩn bị một cuộc hành trình, tiếp theo bước chân trên con đường của nhiều người đặt trước.
Một năm trôi qua, rồi hai năm nhanh chậm…có biết bao nhiêu điều kì diệu khó quên. Những lúc vô tư, trong sáng hay giận hờn, kí ức đều ghi nhớ và nhiều khi bềnh bồng chồng chất như sương núi trong tâm thức tuổi học trò. Nhanh thật. Giờ đây, các em lớp 12 chỉ còn lại những ngày cuối của tuổi học trò thần tiên dưới mái trường phổ thông. Biết nói gì trước lúc chia xa, biết nói gì cho nỗi nhớ đầy vơi không thay đổi. Hạ làm cho con người chờ mong, hạ để lại bao tiếc nuối xót xa và hạ cũng báo trước nhiều điều làm cho lòng người trong cuộc thêm day dứt, bâng khuâng.
Với tuổi học trò, hoa phượng như một hình tượng quen thộc vừa buồn vừa vui khó nói hết. Phượng gắn với áo trắng sân trường song phượng cũng chia tay ngăn cách để lại tình cảm đầu đời lưu luyến khó phai. Mai này dù có đi xa nửa vòng địa cầu, có thành danh cao chức trọng hay một ngày tuổi tác già nua đến mấy, khi nhìn lại những tấm ảnh cầm chùm phượng vĩ trên tay, chắc rằng các em cũng sẽ nôn nao nhớ lại một thời cắp sách đến trường.
Mùa hạ không có tuổi hay ta không đếm được tuổi của hạ. Cho dù hiểu thế nào đi nữa thì cuộc sống, con người, tạo vật luôn tựa vào nhau cảm thông chia sẻ để trái đất này được bình tâm hơn. Ngày mai đâu đó trong cuộc đời, những lúc bất chợt thấy phượng đơm bông, các em nhớ rằng đã đến sinh nhật mùa rồi đấy - tuổi của mùa lần đầu tiên ta biết là những ngày cắp sách đến trường. Khi đó ta tìm một nơi thật yên tĩnh, nhắm nghiền mắt lại để cùng thắp lên một ngọn nến cho mùa thêm sức sống, rồi nắm chặt tay lại hô thật to: Cố lên!

ĐÀO TẤN TRỰC

Thứ Bảy, 25 tháng 4, 2009

THƠ HUỲNH THỊ THANH HUYÊN


Huỳnh T Thanh Huyên đang là học sinh lớp 12. Huyên có sáng tác thơ văn từ nhỏ, có nhiều tác phẩm đăng trên các báo. daotantruc.blogspot.com giới thiệu sáng tác mới của em.

CÁCH XA NÀO

Dừng lại sao mãi vòng vèo
Người ta còn bé, đừng theo làm gì
Nói thật sao cứ cười …khì
Đây mà bực bội có khi mất lòng
Nói rồi lại cứ như không
Chẳng quen chi hết lòng vòng tới lui
Người đâu lại thích làm đuôi
Theo chân người khác, một người kì ghê.
Từ đây đi cũng như về
Cách xa ba mét có thề được không…
Gật đầu sung sướng trong lòng
Thà xa ba mét có còn hơn không.

HTTT

Thứ Năm, 23 tháng 4, 2009

BÀI VIẾT VỀ TRỰC

Đào Tấn Trực – Hơi thở “lục bát” nông thôn
Ngô Phan Lưu

Tết Nguyên Tiêu vừa rồi, nhà thơ Đào Tấn Trực sinh ra và lớn lên từ nông thôn Phú Yên, được trao giải nhất Cuộc thi Thơ do Hội LH / VHNT tỉnh Phú Yên & Hội Cựu học sinh Trường TH Nguyễn Huệ tổ chức tại chân Tháp Nhạn nhân ngày Thơ Việt Nam với bài thơ VỌNG LÀNG. Bài thơ đoạt giải này, lấp lánh những câu Thơ trĩu nặng hình ảnh và tâm tư của nông thôn đã qua, gây xúc động người đọc vì thấm đẫm hơi thở quê nhà: “Có đi về phía con đường/ Mới xa xóm vắng mới thương quê nghèo/ Ngày đi câu hát đi theo/ Thị thành mơ mảnh trăng treo vườn nhà/ Mười bảy tuổi tạm cách xa/ Em toan tính chuyện bước qua lời nguyền/ Đất nồng còn một chút duyên/ Buộc quê với phố, buộc thuyền với sông/ Buộc tôi với luống cải ngồng/ Bãi bồi ai đắp cho đồng phù sa/ Nằm nghe con sóng quê nhà/ Một vùng ký ức khói là là bay/ Trăng nghiêng xuống ngọn tre gầy/ Rạ rơm sương khói nguyện đầy lời ru/ Mẹ giờ đã hóa mùa thu/ Câu ca dao cũ hình như lỡ làng/ Hươ bàn tay gọi đò sang/ Chở tôi về dưới cổng làng ngày xưa…”
Đào Tấn Trực sinh năm 1975, tốt nghiệp khoa Ngữ văn Đại học sư phạm Huế. Hội viên Hội Liên Hiệp VHNT tỉnh Phú Yên. Có thơ văn đăng nhiều ở các báo địa phương và trung ương, trong các tuyển tập thơ chung. Đã xuất bản tập thơ “THƯƠNG NHỚ DÒNG SÔNG”. Hiện là giáo viên trường THPT Lê Thành Phương huyện Tuy An, Phú Yên. Anh dạy học và sáng tác thơ ngay tại quê hương mình.
Anh có sáng tác văn xuôi khá nhiều, nhưng Thơ vẫn là khả năng nổi trội của anh. Đặc biệt, dòng lục bát được anh sáng tác khá có hồn. Dĩ nhiên những thể loại thơ khác như: Tự do, Ngũ ngôn, Thất ngôn…anh vẫn sáng tác, nhưng không bằng thơ lục bát. Dường như chiếc áo “lục bát” vừa vặn, đẹp và ấm áp đối với anh. Chiếc áo “lục bát” ấy phải ôm lấy một tâm hồn thấm đẫm nông thôn như anh mới chịu tỏa sáng: “Tôi về chân lấm đất nâu/ Trời đem mây xuống hun sâu cánh đồng/ Mắt quê úp mặt vào lòng/ Nghe rơm rạ cũng xót nồng bàn chân/ Bao năm chạm một nỗi mừng/ Về quê thăm quẩn quanh từng ngõ xưa/ Dòng sông cũ bóng nhẹ thưa/ Thương con bìm bịp giữa trưa gọi bầy/ Này bàn chân nhỏ thơ ngây/ Lấm lem bùn đất của ngày xưa tôi/ Nước dừa một ngụm mềm môi/ Ngọt từng thớ đất thành lời quê hương…”
Đào Tấn Trực có lẽ ý thức được điều này và anh đã phát triển nó liên tục. Anh không chạy theo thời thượng “hậu hiện đại” như các nhà thơ trẻ khác, bởi anh biết mình chưa “hiện đại” thì làm sao mà “hậu hiện đại”. Anh biết mình là ai và anh biết chấp nhận mình để phát triển mình.Và chính điều này làm anh khác biệt. Kết quả, anh đã nổi trội vì anh có tài năng phát huy cái khác biệt ấy: “ Em về lục bát đã xa/ Mù sương đổ xuống chiều qua cổng thành/ Câu thơ anh viết chòng chành/ Non tay nên khuất một vành nón nghiêng…” Không, thơ anh không non tay đâu, mặc dù nó chưa già tay. Mà non hay già, đó không phải là vấn đề. Vấn đề là có hồn hay không có hồn. Còn việc “khuất một vành nón nghiêng” đó là do thơ anh có hồn. Nếu không có hồn ắt đã lọt vào vành nón nghiêng rồi. Đừng có tự trách thế. Đó là do tai họa thơ trên trung bình gây ra!
Thơ lục bát của Đào Tấn Trực đã tiến được gần tới sự giản dị. Đó là một nổ lực không ngừng của anh.
Thời hôm nay, thỉnh thoảng có nhiều nhà thơ đã sáng tác nhiều bài quá phức tạp, rối ren, thậm chí còn bí hiểm. Thực sự họ đã xa rời giản dị. Hoặc có thể họ không thèm giản dị. Dù gì đi nữa, giản dị đối với họ quả là khó khăn nên mới ra thế. Thú thật, phải cố gắng đọc, nhưng đọc xong chẳng biết họ viết gì. Lại cũng thỉnh thoảng có nhà thơ giản dị đến mức triệt tiêu chữ nghĩa. Câu thơ chỉ một chữ, hai chữ, thậm chí có giòng không có chữ. Thật cũng mệt vô cùng. Tóm lại, cả hai đều đã bỏ rơi cái giản dị. Họ đã viết quá mau và quá dễ, nên khó đọc và không hiểu được.
Những lời thơ giản dị phụng sự con người, luôn luôn mọi thời đều trân trọng chờ đợi. Quả thật, Đào Tấn Trực đã làm được điều này.
Và, vì cái nhan đề hơi quá “Đào Tấn Trực – Hơi thở “lục bát” nông thôn”, mong rằng hơi thở ấy mạnh hơn nữa, vang xa hơn nữa, ghi dấu ấn hơn nữa, để cái nhan đề ấy được đúng như ý nguyện người viết bài này.

N.P.L

Thứ Năm, 2 tháng 4, 2009

CHÂN DUNG VĂN NGHỆ SĨ


NHÀ VĂN NÔNG DÂN NGÔ PHAN LƯU
THÂM CANH TRÊN CÁCH ĐỒNG CHỮ

Đào Tấn Trực (Thực hiện)
Ông Ba Lưu, tên đầy đủ Ngô Phan Lưu, sinh 1946 tại xã Hoà Mỹ, bên cánh đồng lúa Tuy Hoà nổi tiếng cao sản tỉnh Phú Yên. Trước 1975, ông từng là sinh viên khoa triết Đại học Văn khoa Sài Gòn. Sau 1975 ông về quê sống nghề làm ruộng. Lăn lộn ruộng đồng gần 20 năm, ông ba Lưu hoàn toàn là một nông dân thứ thiệt. Nhưng vì mỏi tay cày, Ngô Phan Lưu mới viết báo, làm thơ. Đánh dấu ngã rẽ cuộc đời là tập thơ BẾP LỬA CHIỀU ĐÔNG (1997). Nhưng, ông sớm nhận ra ngòi bút mình rất vô duyên với nàng Thơ. Thất bại toàn phần, ông chuyển sang viết truyện ngắn. Năm 2004, tập truyện ngằn NGƯỜI KHÔNG GIĂNG CÂU KIỀU ra mắt, được nhiều bạn đọc ưa thích, đánh giá cao.. Từ đó đến nay, rải rác trên các báo trung ương, cái tên Ngô Phan Lưu gắn liền với truyện ngắn, xuất hiện nhiều đến quen thuộc.
Chuyện ông Ba Lưu chuyển tay cày sang tay viết, đã gây ngạc nhiên nhiều người nơi quê hương ông sống. Bỡi thế cho nên họ gọi ông là nhà văn nông dân.. Lưu nhà văn hay Lưu nhà nông, hay cả hai nhà gộp lại, ông cũng ừ. Ông không bận tâm đến danh xưng. Họ gắn thế nào cũng xong, miễn đúng tên là được. Ông coi trọng thực chất bên trong hơn cái danh hão bên ngoài.
Năm 2007, Ngô Phan Lưu đã thành danh. Cái tin ông Ngô Phan Lưu người Phú Yên đạt giải nhất cuộc thi truyện ngắn của tuần báo Văn Nghệ - Hội Nhà văn VN - với hai truyện ngắn “Buổi sáng biến mất” và “Cơm chiều” đã khẳng định tài năng văn học của ông. Phải nói ông thành danh muộn, nhưng tác phẩm ông đã khẳng định được một vị trí nào đó trên văn đàn. Nhà văn nông dân nay bước sang tuổi 64. Giờ đây, việc thâm canh trên cánh đồng chữ nghĩa đối với ông cũng nhọc nhằn và gian lao gấp mấy lần so với thâm canh đồng lúa .
Ông Ba Lưu nhà văn nông dân là một con người có nhiều cái “chịu”. Trong giao lưu sinh hoạt với anh em bạn bè, ông là người “chịu” chơi. Ông có thể ngồi cả buổi hoặc thâu đêm tiếp bạn. Mỗi khi anh em có bàn trà chén rượu, nhã ý “Alô” là ông lên xe liền, nếu không bận việc. Trong viết lách, ông là người “chịu” sáng tạo. Dù ban ngày bận bịu mệt nhọc thế nào, buổi tối cũng phải ngồi trước máy vi tính gõ năm, sáu trăm chữ. Ông viết truyện ngắn, tản văn cẩn thận. Sự khẳng định chất lượng ngòi bút của ông được minh chứng bằng các tờ báo gọi mời đặt “hàng” hay giao cho ông một chuyên mục nào đó thường kì.
Tôi lúc nào cũng coi ông như một người thầy về mặt sáng tác văn học. Qua nhiều lần trò chuyện, tôi học được ở ông nhiều điều bổ ích cho việc cầm bút. Cách nói chuyện của ông thẳng thắn, gãy gọn, dí dỏm mà sâu sắc như văn của ông vậy.
- Ngày trước, học hành dở dang lại về quê lăn lóc làm ruộng, vậy làm sao ông viết văn hay? Có bí quyết nào chăng, thưa ông?
Tròm trèm 20 năm làm ruộng, chăn bò trên núi, lúc rảnh tôi luôn đọc sách. Sách của tôi ngày đó khá nhiều và tôi xem sách như một người bạn không thể thiếu. Tôi đọc kỹ nhiều thứ: văn học, triết học, cả kinh Phật, và trên hết là chịu suy nghĩ. Chỉ thế thôi. Còn bí quyết tôi không có.
- Vậy ông viết văn thành công là nhờ đọc sách nhiều ?
Đúng thế, đọc rồi viết. Đầu tiên tôi làm thơ, in được một tập, thấy dở quá, tôi chuyển ngay sang viết truyện ngắn mà không do dự. Nếu sau này, thất bại tiếp, tôi sẽ chuyển sang viết phê bình cũng không do dự. Nếu mọi việc không được nữa, tôi buộc phải trở lại làm thơ và lúc ấy phải do dự. Tôi quyết theo văn chương đến cùng. Tôi nghiệm ra một điều nữa là: Song song với việc đọc sách tạo “lực”, còn phải có “gan” với ngòi bút của mình, nhưng cái “gan” phải đi trước.
-Ngoài học sách, nhà văn còn học ở đâu ?
Học ngoài đời. Học chính nghề gốc của mình phải biết chậm rãi, chịu khó. Học các lão nông luôn nhìn gần và nhìn kỹ. Học con nít sự liên tưởng đột ngột, trí tưởng tượng bay bổng. Học chiếc máy ảnh không bỏ sót chi tiết nào. Đại khái như thế…v.v…và…v.v…
- Có người đọc tác phẩm của nhà văn, họ nói ông Ngô Phan Lưu viết toàn chuyện ác. Ông thấy thế nào ?
Không phải viết toàn chuyện ác, mà là dũng cảm viết đối mặt với cái ác. Gặp cái ác, tôi quyết rọi đèn pin vào, cho mọi người thấy rõ hơn mà ghê tởm, mà diệt trừ.
-Trước và sau khi đạt giải thưởng, ông thấy ngòi bút của mình có thay đổi gì không?
Ngòi bút vẫn như thế. Giải thưởng chỉ là một loé chớp cho tôi dừng lại để sáng sủa một chút. Giờ tôi đã xa nó rồi. Giờ tôi tiếp tục cần cù, tiếp tục cô đơn, tiếp tục làm việc trong âm thầm, hệt như hồi chưa có giải thưởng.
- Nhà văn có thể nói về những tác phẩm của mình mới in gần đây?
Giữa năm 2008 rồi, NXB Phụ Nữ đã in tập Truyện ngắn & Tản văn có nhan đề CƠM CHIỀU, chủ yếu viết về nông thôn trong thời kỳ hội nhập phát triển. Quyển sách tốt, nhiều bài viết các báo đánh giá cao. Năm nay, đang tiến hành in tập Truyện ngắn & Tản văn có nhan đề XOA TAY VÀ CƯỜI. Tác phẩm này vẫn chủ yếu viết về nông thôn. Tuyển chọn những truyện ngắn và tản văn có chất lượng gần đây. Nói chung, những tác phẩm được in ra tôi đều quí, cho dù nó dở hay nó hay. Bởi nó là tinh thần của mình.
- Nhà văn là người hay viết tuỳ bút và tạp bút, hai thể này khác nhau như thế nào, các bạn trẻ bây giờ rất cần biết điều đó ?
Tôi ít viết tùy bút mà thường viết tản bút và tạp bút. Bởi hai thể sau phù hợp với tạng tôi. Đại khái, chúng cũng khác nhau đôi chút. Tùy bút là nghi chép con người và sự kiện, có tính chất cảm xúc, trữ tình. Tản bút là viết không kiểm thúc, không ràng buộc, viết thong thả rong chơi. Tản là không ràng buộc, là thong thả. Còn tạp bút là viết lộn xộn nhiều thứ khác nhau, không nhất quán. Tạp là lộn xộn nhiều thứ khác nhau. Riêng tùy bút phải chuyên chở sự thật, không viết láo được cho dù rất văn chương. Chuyện là thế, nhưng trong tản bút hay tạp bút hay tùy bút đều có thể vận hành chung trong một bài vẫn không trở ngại. Còn làm sao tôi viết được nhiều và sâu sắc? Qua trải nghiệm tôi rút được như vầy: Tôi viết được nhiều do thứ nhất là siêng năng. Siêng năng là chính. Thứ hai là do quan niệm “vạn sự vạn vật trên cái cõi đời này đều có thể đi vào văn pháp”. Cái thứ hai này cũng là chính. Còn viết được sâu sắc là do cách xử lý đề tài và kinh nghiệm sống cùng trí tuệ bản thân. Việc này không thể nói trong vài dòng, cho dù rất muốn nói ra.
- Hiện nay nhà văn sáng tác ra sao, có ấp ủ điều gì phía trước không?
Hiện nay, tôi vẫn viết đều đều như nông dân cày ruộng. Viết chứ chẳng sáng tác gì cả. Tản bút, tạp bút… tôi viết nhanh vì vốn sống tích lũy nhiều. Nhưng truyện ngắn phải đầu tư và xây dựng công phu nên viết phải lâu. Sống tới tuổi này, kinh nghiệm dạy tôi kiên nhẫn làm việc hết sức mình.
-Vậy, ắt nhà văn đã có dự đinh viết tiểu thuyết ?
Cố gắng viết một quyển tiểu thuyết thật đàng hoàng, dày khoảng 300 trang.
-Tiến hành được bao nhiêu trang rồi, thưa nhà văn?
Đã tiến hành được “dự định”. Còn “trang” hãy từ từ.
-Xin cảm ơn nhà văn.

ĐTT( Theo Áo Trắng - Tuổi trẻ 1-4-2009)

Chủ Nhật, 29 tháng 3, 2009

TẢN VĂN CỦA ĐÀO TẤN TRỰC


TÓC DÀI TRÊN PHỐ
Con gái đến tuổi dậy thì, tóc bắt đầu đen và mượt dần. Mười bảy tuổi, mái tóc dịu dàng xoã kín bờ vai. Tóc dài làm tôn thêm vẻ đẹp, duyên dáng; nó như một phần tạo nên vóc dáng, nết na của người thiếu nữ .
Ngày trước các thôn nữ thường gội đầu bằng lá chanh, lá bưởi, lá dứa…Mái tóc đã đen lại càng đen nhánh, óng mượt và xanh thẳm. Ngày đó tóc dài vừa để làm đẹp, vừa như một sự bình thường hiện hữu hiển nhiên. Con gái ai cũng tóc dài! Tôi có lần mê mẩn trước nét đẹp trên một mái tóc dài của cô bạn học cùng trường. Mái tóc cô như có linh hồn phả vào tôi bao điều kì diệu. Những lần tan lớp, tôi thường đi sau cô, cố giữ một khoảng cách vừa đủ để ngắm nhìn mái tóc xoã trên bờ vai ngọc ngà dưới làn nón nghiêng che hoà quyện cùng chiếc áo dài vô tư đạp xe trên phố. Con gái có mái tóc dài đạp xe trên phố đẹp và dịu dàng. Con gái có mái tóc dài đạp xe trên phố có biết bao chàng trai lặng lẽ theo sau làm cho con đường rợp bóng mát dưới những hàng cây cổ thụ đã xa lại càng xa thẳm và hun hút hơn. Tôi biết yêu mái tóc dài từ đó, biết quý từng con đường và dường như bớt căng thẳng hơn sau nhiều buổi tan trường. Tóc dài trên áo, áo dài trên phố như đàn bướm trắng lộng lẫy giữa vườn hoa mùa xuân làm cho phố phường trong giờ tan tầm gần như chật ních lại không bao giờ ngột ngạc vô duyên.
Một may mắn trong đời, tôi nhiều năm được sống ở mảnh đất cố đô, nơi có ngôi trường Đồng Khánh ngày xưa nổi tiếng nay là trương Hai Bà Trưng cạnh trường Quốc Học. Con gái Huế mặc áo dài tím qua cầu Tràng Tiền trong bất cứ thời gian nào cũng trông mới dễ thương làm sao. Hầu như thiếu nữ Huế đều để tóc dài. Có những cô tóc dài như nước dòng Hương dịu dàng soi bóng kinh thành mát dịu. Trời Huế mờ sương, khí hậu trong lành hoà hợp theo mùa nên bất cứ gam màu nào tóc dài cũng đẹp.
Thời cắp sách đã lùi xa vào dĩ vãng. Mái tóc dài cũng trở nên hun hút như những con đường có bóng cây hay thoáng qua trong trí nghĩ. Biết bao việc cần với thực tế, biết bao việc phải làm cho cuộc sống hôm nay chưa nói hết nên phần nào nét đẹp của mái tóc dài cũng lùi xa vào ngày cũ. Một lúc nào đó chính tôi cũng tự thấy mình đứng xa với ngày xưa, kể cả đám bạn thân một thời. Bây giờ thời gian hiếm như vàng, một năm gặp mặt một lần cũng đủ lắm. Gặp để tâm sự, sẻ chia, gặp để nhận ra ít nhất một lần ai cũng khác, kể cả cô bạn ngày trước có mái tóc dài chấm lưng. Cô vào nam học đại học rồi làm việc, có lẽ mái tóc dài không phù hợp với môi trường và công việc nên cô đã đành lòng cắt đi… Cũng đúng thôi. Phù hợp, quý phái và sang trọng… âu cũng là một tiêu chí cho người phụ nữ ở bất cứ thời điểm nào.
Ngày nay, mỗi chiều ra phố tôi muốn nhìn một mái tóc dài thướt tha cho đỡ nhớ sao không thấy.

Đào Tấn Trực

THƠ BÙI VĂN THÀNH


Th s Bùi Văn Thành nguyên Hiệu trưởng trường THCS TRần Rịa. Hiện anh đang là phó phòng Giáo dục huyện Tuy An tỉnh Phú Yên. Làm công tác quản lí nhưng anh có lòng đam mê sáng tác và nghiên cứu văn học. Tác phẩm của anh được đăng nhiều trên các báo. daotantruc.blogspot.com xin giới thiệu hai bài thơ lục bát mới của anh.

Tìm lời mẹ ru
I
Mỗi người có một tuổi thơ
Tuổi thơ tôi, tiếng ầu ơ mẹ hiền
Trò chơi chẳng tốn bạc tiền
Dán dìều, đẽo dụ, làm thuyền mo nang
Kèn dừa tự quấn kêu vang
Mùa hè bắt dế, thêng thang ngoài đồng
Tuổi thơ tôi gắn dòng sông
Thả lờ câu cá rô đồng chấm rau
Bài vở vẫn thuộc làu làu
Giờ sinh hoạt, nắm tay nhau vui cười
Tuổi thơ bám riết tuổi đời
Giữ cho hơi ấm sáng ngời tình quê
Thời gian cõng cả tuổi thơ
Cho tôi hiểu tiếng ầu ơ khóc cười…

II
Xa quê ngót nửa đời người
Trở về quê cũ tìm lời mẹ ru…
Mẹ già vào cõi thiên thu
Lời ru năm cũ vi vu võng nhà
Thoảng nghe trong gió lời ca
Tiếng ru của mẹ thiết tha ngọt ngào
Vẳng nghe tiếng ếch bờ ao
Lời ru của mẹ hoà vào tiếng ve…
Đêm trăng lóng lánh ngọn tre
Mẹ ru như gió mùa hè nam non
Con về tìm lại lối mòn
Tuổi ngày thơ ấy có còn hay không
Lặng im nghe tiếng cõi lòng
Lời ru của mẹ ẳm bồng à ơi…….



Giấc mơ thăm Thầy

Kính tặng thầy Chu Xuân Bình
Tôi có trăm ngàn giấc mơ
Nhưng giấc mơ đêm nay là giấc mơ đẹp thật
Tôi đến Nha Trang thăm thầy sau một ngày tất bật lo toan cho cuộc sống đời thường
Đường xa, đèo dốc gập ghềnh
Một vợ hai con trên một chiếc Hon Đa Đam cũ kĩ
Xe phải nghỉ nhiều nơi nhưng cuối cùng vẫn đến thăm thầy được
Không gặp thầy lại gặp vô số bạn bè ngày xưa cũ
Tuổi sinh viên sống lại dịu kì
Hàn huyên bạn bè chờ thầy mãi tới khuya
Vì điều kiện gia đình, tôi phải trở về ngay
Xe chạy như bay, với bao điều trăn trở
Không biết thầy mình giờ đã dạy về chưa
Giữa đường, trời bỗng đổ cơn mưa
Vợ lạnh, con run, đường đi lầy lội
Nhưng trong sâu thẳm lòng tôi, vẫn vui như ngày hội
Vì đã được thăm thầy, dù chỉ giấc mơ !

1995
Bùi Văn Thành
ĐC: Phòng giáo dục huyện Tuy An – Phú Yên
Email:
buivanthanhpgd@gmail.com
ĐT: 0982510564

Thứ Sáu, 27 tháng 3, 2009

TẢN VĂN CỦA ĐÀO TẤN TRỰC

Vầng trăng vẫn thế
Nơi tôi ở gần với khu công nghiệp nên ít khi bị mất điện. Có chăng cũng thỉnh thoảng nhưng tối nay lại mất điện. Căn phòng chật, trời nóng nên tôi ra ngoài cho thoáng. Ngồi nhìn đường quốc lộ, từng đoàn xe nối đuôi nhau ra bắc vào nam trong bóng đêm ồn ào, lặng lẽ. Bầu trời cao vời vợi, những ngôi sao đồng hành cùng ông trăng sáng. Tôi nhắn tin: Em làm gì, tối nay trăng sáng, mình lên đỉnh Nhạn ngắm trăng em nhé! Chu cha, hôm nay anh cũng lãng mạn thế à….
Lâu giờ tôi quên đêm trăng sáng thật đấy. Trăng đến độ vẫn như thường nhưng lỗi do mình hờ hững qúa thôi. Đúng rồi, ban ngày bao nhiêu là việc, có khi quên cả mình, tối về nhà đã khuya lại phải chuẩn bị cho công việc ngày mai – ngày dương lịch nên làm gì có thời gian nhớ đến ông trăng như năm nào.
Lại nhớ về ngày cũ. Suốt thời trẻ con rồi học phổ thông, tôi chưa bao giờ được đánh vần, ngồi làm bài tập dưới bóng điện nơi quê nhà. Nhà quê lam lũ trong bóng đêm, trong bóng đèn dầu nhưng không hề tối tăm. Mỗi đêm trăng, bọn trẻ con chúng tôi hay chơi trò đuổi bắt, trốn tìm trong xóm, kỉ niệm mênh mang và nhiều khi mơ hồ đã chìm theo ngày tháng. Các cô chú, anh chị cũng rộn ràng mỗi độ trăng về… Bóng Trăng nơi miền quê như thâu tóm toàn bộ cảnh vật, bầu trời vào tấm gương thần rồi chiếu ngược lại làm cho thiên nhiên nên thơ, hữu tình và không trơ trụi, bụi bặm như ban ngày.
Từ làng quê không điện, biết bao con người đã ra đi, thành đạt, đóng góp công sức mình cho công cuộc xây dựng đất nước. Do môi trường, cuộc sống, lứa tuổi và công việc làm ăn nên nhiều người bây giờ không có thời gian nhớ về những chuyện không đâu. Cả ngày ngồi trong phòng lạnh hay mải mê vận hành những cổ máy; tối lại đối mặt với bóng đèn cao áp, máy tính hay chiếc ti vi…Cũng như tôi, thật tình khó nhớ và khó nói làm sao…
Xin cảm ơn bầu trời đã cho ánh trăng, ánh trăng đã cho tôi nhiều kỉ niệm. Xin mắc nợ mùa trăng rằm nơi làng quê xa lắc mà lâu rồi tôi chưa có dịp trở về. Xin cảm ơn em và buổi tối mất điện hôm nay đã cho tôi kịp nhận ra rằng, bóng trăng vẫn đẹp và luôn đồng hành bên con người.

Đào Tấn Trực

Ý KIẾN TRAO ĐỔI

Trả lời ông Nguyễn Kiến Thiết

Rất tiếc đọc được bài của ông viết về bài thơ Vọng làng của tác giả Đào Tấn Trực quá muộn dù vậy, tôi không thể không viết. Chắc tác giả đã có lời giải thông theo như yêu cầu của ông. Nhưng tôi xin được trao đổi cùng ông.
Trước hết, ông cho rằng “ với bài “Vọng làng” của tác giả Đào Tấn Trực, có nhiều chỗ tôi chưa thông hiểu”. Xin thưa với ông, cũng không có gì không hiểu, nếu như ta có một trình độ nhất định, bởi thơ là nghệ thuật chứ không phải là ca dao mà phải đại quần chúng cũng hiểu. ( những chỗ không hiểu của ông tôi sẽ giãi mã sau)
Thứ đến, ông cho rằng: “ ý tưởng này là ý hay nên đã có hàng nghìn bài thơ khai thác đề tài này. Điều này dễ gây cho độc giả hiểu lầm là tác giả đạo thơ”.Trời ơi! Sao Bác nói vậy? tình yêu là đề tài muôn thuở mà từ xưa đến nay vẫn cứ được khai thác và được mọi người yêu thích thì sao?. Còn đạo văn thì Bác cố đọc thử trong các bài văn thơ viết về hoài niệm tuổi thơ có câu nào tác giả lấy cắp không? Nói phải có sách, mách phải có chứng Bác ạ. Cái xấu của con người ta là hay áp đặt ý của mình lên người khác đấy.
Thứ ba là “ đến ba câu cuối tác gải đã tự đốt lưới nhà phản đề phần đầu, câu ca dao cũ hình như lỡ làng”. Xin hỏi tác giả câu ca dao cũ là câu gì? Vậy tôi xin hỏi Bác, mẹ ngày xưa ru Bác câu gì? Hay chỉ có câu Công cha như núi Thái Sơn…. mà Bác viết không ạ? Muốn hiểu câu thơ phải đặt nó trong lô gích của tác phẩm. Mười lăm câu thơ mà Bác cho là hay đấy, nó nói được tấm lòng hoài niệm của tác giả đối với quê nhà. Còn hai câu tiếp theo: “ Mẹ già đã hoá mùa thu / Câu ca dao cũ hình như lỡ làng” . Theo tôi hiểu thì mẹ đã đi vào cõi vĩnh hằng ( mẹ hoá mùa thu là vào cõi vĩnh hằng thì người VIệt Nam ai cũng hiểu cả), câu ca dao ngày xưa của mẹ ru đã để lại trong tác giả nỗi nhớ nhung, luyến tiếc. Bởi ai cũng lớn lên từ lời ru của mẹ, hay hiểu theo một cách khác, trở về làng, mẹ già không còn nữa, câu ca dao ngày xưa mẹ ru, mẹ hát, mẹ dặn “hình như lỡ làng” khiến tác giả không những nhớ nhung mà còn có chút ân hận về những điều mình chưa trả hiếu cho mẹ…. chứ không phải như Bác nghĩ “ là ca dao dù có ra đời lâu nhưng không bao giờ cũ. Tác giả khát khao hoài niệm tuổi thơ nơi đồng nội có cha sinh mẹ dưỡng, đầy ắp kỉ niệm êm đềm, bây giờ sao lại lỡ làng” .
Tiếp đến như Bác nói “ Huơ bàn tay gọi đò sang / Chở tôi về dưới cổng làng ngày xưa. Thưa tác giả chắc không lái đò nào có thể chở tác giả ra tận miền Bắc, xa quá tác giả ơi! Xin nhắc nhà thơ, nhà giáo là ở quê ta không hề có cổng làng. Cái cổng làng của tác giả chỉ là hình ảnh của cậu học trò mọt sách viết theo sách giáo khoa xưa.
Ối trời ơi! đến đây, tôi mới thực sự hiểu được trình độ người viết. Trước hết là con người hiểu thơ theo “ Xã hội học dung tục”. Cách hiểu này đã từng làm phiền toái biết bao nhân tài. Mặt khác, làm gì mà Bác nặng lời với tác giả bài thơ như vậy. Bác có thù oán gì với tác giả không? Hay sao mà Bác viết vậy. Thôi, xin thưa với Bác, những chuyện như Bác nói ấy nó nhan nhản trong văn chương, rất tiết là Bác đọc và học ít quá ( Bác có muốn tôi lấy dẫn chứng không, ví như trường hợp Minh Huệ, Chế Lan Viên…Minh Huệ khi viết bài thơ Đêm nay Bác không ngủ không hề gặp Bác, còn Chế Lan Viên viết về Tây Bắc cũng chưa bao giờ đến Tây Bắc). Nhà thơ hơn người thường là vậy Bác ơi. Và nếu vậy thì Bác cũng nên góp ý trên tinh thần xây dựng.May mà ( tôi tin là như vậy) Bác không giữ chức vụ gì về văn học nghệ thuật, nếu như có thì chắc tiêu biết bao người.Bài thơ trên đã để lại trong tôi một ấn tượng mạnh và đẹp chưa bao giờ có về chủ đề hoài niệm, vì vậy, mà sau khi đọc bài thơ trên, tôi đã cảm xúc viết nhiều bài thơ cũng về chủ đề ấy. Nhân đây cũng nói luôn với Bác, theo tôi, do ở Phú Yên, hay nói chính xác quê tác giả nếu không có cỗng làng thì bài thơ càng hay nữa, vì thơ nó đâu chỉ dành cho riêng ai. Người miền Bắc đọc bài thơ Vọng làng họ yêu mến biết bao, họ thấy trong đó có họ, và vì thế mà bài sẽ sống mãi năm tháng. Tôi tin chắc như vậy. Không tin Bác cứ sống mà coi.
Cuối cùng như Bác nói “ Sau khi nghe đài thông báo bài thơ “Vọng làng” đăng quang Thơ Trạng 2008 quê nhà, nhiều thi hữu gặp tôi chỉ biết lắc đầu nói nhỏ: “bài thơ mà nhất thơ 2008 thì vô tình hạ thấp ( chưa đến nỗi hạ nhục) vùng thơ đất Phú”
Bác ạ, người ta thường có câu, muốn biết người hãy xem bạn anh ta. Theo tôi thì “thi hữu” mà Bác nói ấy thì tâm địa cũng như Bác vậy thôi.
Nguyễn Du đã từng nói : “ Chữ tâm kia mới bằng ba chữ tài”. Mong rằng cách góp ý, xây dựng cũng từ chữ tâm mà cụ Nguyễn hằng tâm nguyện.

Bùi Văn Thành
( Phòng Giáo dục và Đào tạo Tuy An )

Thứ Hai, 16 tháng 3, 2009

Ý KIẾN TRAO ĐỔI

THƯ "CÁO ỐM" CỦA ÔNG NGUYỄN KIẾN THIẾT
Người gửi: Nguyễn Kiến Thiết (Cán bộ hưu trí, hiện ở KP 3Ninh Tịnh, P.9, TP Tuy Hoà)
Tuy Hoà 22.02.2009

Thưa thầy Phạm Ngọc Hiền
Sau khi đọc bài “Chất thơ trong một cuộc thơ” trên Báo phú Yên, vì có liên quan đến bài “Vọng làng’ của tác giả Đào Tấn Trực, nên tôi có ý kiến giải bày sau đây:
- Ngày 09/02/2009, tôi có thư nhờ cơ quan thông tin đại chúng của tỉnh chuyển đến tác giả để xin được giải thông mấy điều tôi chưa rõ. Đến nay tôi chưa nhận được phúc thư, nhưng may mắn đã có thầy giúp tác giả làm việc này với hình thức một bài phê bình thơ. Dù có u tối đến mấy tôi vẫn biết được dụng ý của bài báo là mượn chuyện phê bình tuyển tập thơ để bào chữa hộ cho đàn em.
Bài thơ đâu phải là bản tuyên dương mà chỉ đơn thuần nói về cái hay cái đẹp, không một lời đề cập đến những điểm còn hạn chế. Không lẽ tuyển tập thơ này quá hoàn thiện ? Là một tiến sỹ văn học chuyên về phê bình thơ văn mà không phát hiện những “ổ gà” trong các bài thơ đạt giải sao? Vậy mà, một số bạn thơ nghiệp dư lại có ý kiến rất xác đáng; đơn cử:
- Bài thơ “Gồng gánh” của Hà Kiều My thật hay. Giữa bài xen vào câu “ Những đứa con điện về, xin tiền, đi học” sau câu thơ vừa hay vừa đủ ý “Con chữ hôm qua lại cựa mình trong giấc mơ của mẹ”. Thêm vào một câu vừa thừa ý, vừa thiếu chất thơ làm cho bài thơ giảm giá, khác gì hạt sạn trong bát cơm thơm phức gạo Nàng Hương.
Trong thơ tôi gửi cho thầy Đào Tấn Trực, tôi vẫn có lời khen 15 câu đầu, chỉ thắc mắc mấy câu cuối, đặc biệt là câu: “Câu ca dao cũ hình như lỡ làng” đi sau câu “Mẹ giờ đã hoá mùa thu”. Theo thầy Hiền thì “Mẹ già đã hoá mùa thu” tức là đi vào cõi vĩnh hằng (chết). Hoá mùa thu mà giải nghĩa là chết thì khó thuyết phục. Mùa thu, mùa thay lá nên cây úa lá vàng, mẹ hoá mùa thu tức là già nua theo tuổi tác (3/4 cuộc đời, cuối mùa đông mới cuối đời) nên tóc bạc, da mồi chứ không hề chết. Nhưng nếu tạm chấp nhận hoá mùa thu là chết, như vậy người mẹ của tác giả đã chết. Chết vì thiếu sự phụng dưỡng của đứa con trai đang ở gần quê nhà “Nằm nghe con sóng quê nhà” mà không về. Chiến tranh đã lùi xa. Nông thôn ngày càng thay da đổi thịt mà người ra đi vẫn không về để cùng đồng bào xây dựng nông thôn mới, để gần gũi phụng dưỡng mẹ già, báo hiếu theo truyền thống tốt đẹp của người dân Việt. Tội bất hiếu ấy khó tha thứ!
Những ý kiến trình bày trên đây không ngoài mục đích góp phần xây dựng phong trào sáng tác thơ văn tỉnh nhà. Là một người yêu chuộng thơ văn, tôi rất kính phục và ngưỡng mộ thầy Hiền và cô Trang. Các thầy cô là tấm gương sáng về tinh thần hiếu học, chịu khó vươn lên.
Tôi xin chúc thầy Đào Tấn Trực; rất mong thầy phát huy khả năng sẵn có để cống hiến cho xã hội nhiều tác phẩm văn học có giá trị.
Cuối cùng, xin được chấm dứt cuộc trao đổi bổ ích này để cùng nhau bắt tay vào nhiệm vụ mới - Nhiệm vụ phát triển văn học tỉnh nhà trong thời kỳ mới./.
Bản sao kính gửi: Kính thư- Hội Liên hiệp VHNT tỉnh PY
BáoPhúYên

“Kính tường trình”
Nguyễn Kiến Thiết
M M Tâm đánh máy theo nguyên bản)

Ý KIẾN TRAO ĐỔI

Ý KIẾN -THƠ CỦA BÙI VĂN TUẤN VỀ VỤ "VỌNG LÀNG"

SÓNG GIÓ RỒI SẼ QUA ĐI!
Kính thưa quý độc giả! Tôi: Bùi Văn Tuấn, người con của đất Hòa Quang-Phú Hòa-Phú Yên. Là cựu học sinh trường Trần Quốc Tuấn (1983-1986), và may mắn được trui rèn bởi những người thầy vô cùng mẫu mực như: Thầy Nguyễn Đình Chúc, thầy Phan Long Côn, thầy Nguyễn Hữu Phước v.v… kể cả về kiến thức và nhân cách.
Tôi xa quê hương vào Nam đi học và lập nghiệp cũng ngót nghét hai chục năm trời. Xin thật lòng mà nói: không sống ở đâu bằng sống trên chính mảnh đất quê hương mình. Nhiều đêm đang ngồi, tôi bỗng thấy nhớ mảnh trăng quê da diết. Ước gì vào một đêm trăng thanh, tất cả những bạn bè chiến hữu đều ngồi quây quần bên nhau, cùng nhâm nhi ly rượu nồng, nhìn trăng và nghêu ngao những bài tình ca tha thiết…
Kính thưa quý vị!
Nhờ công nghệ thông tin bùng nổ mà hàng lọat tờ báo điện tử ra đời, nên tôi mới có dịp cập nhật hằng ngày những tin tức và sự kiện ở quê nhà qua báo điện tử Phú Yên. Và qua đó, tôi cũng được thưởng thức những bài thơ hay, những áng văn sống động. Ngây ngất với chùm thơ lục bát của Đinh Lăng, nỗi khắc khỏai và trở trăn của con người xứ nẫu qua bài: Miền trung của Đào Đức Tuấn, rồi ước mơ cuộc đời luôn tươi sáng qua bài: Nụ tầm xuân của Phan Hòang v.v… nhưng tôi thật sự xúc động khi đọc bài Vọng làng của Đào Tấn Trực. Nói thật, lâu lắm rồi tôi mới đọc được một bài thơ mà cảm xúc lại trào dâng đến thế! Cám ơn tác giả Đào Tấn Trực đã cho tuổi thơ tôi và biết bao người nữa đã được hồi sinh qua năm tháng…
Tuy sóng gió đang rình rập uy hiếp “Vọng làng”, nhưng tôi tin rằng tác giả luôn kiên định với nghiệp cầm bút của mình và sẽ cho ra đời nhiều và thật nhiều bài thơ hay nữa…
Mượn thơ thay lời muốn nói! Tôi xin mạn phép gởi đến quý độc giả yêu văn chương và nghệ thuật.

Thẹn
Con miểu cắn con mèo
Cả hai ngồi thở pheo
Rồi nhìn nhau e thẹn:
Mèo!

Ganh
Ta bí ngươi là bầu
Chả có họ hàng nhau
Cớ sao người soán chỗ
Bầu?

Saigon, ngày 07/03/2009Bùi Văn Tuấn

Ý KIẾN TRAO ĐỔI

CHẤT THƠ TRONG MỘT CUỘC THI THƠ
.
Giải thưởng văn học thường niên của Hội LH VHNT và Hội Cựu học sinh trung học Phú Yên vừa mới được hình thành gần đây nhưng đã sớm khẳng định được thương hiệu của mình. Năm 2008, Ban tổ chức phát động cuộc thi thơ và được sự hưởng ứng nồng nhiệt của nhiều văn nghệ sĩ trên khắp mọi miền Tổ quốc. Để tăng tính khách quan, thành phần Ban Giám khảo không chỉ có các nhà văn quen thuộc trong tỉnh mà còn có cả những nhà văn có uy tín ở các tỉnh khác như Lê Khánh Mai (Chủ tịch Hội VHNT Khánh Hòa) và Nguyễn Thanh Mừng (Chủ tịch Hội VHNT Bình Định). Ban Giám khảo đã chọn ra được 11 tác giả để trao giải. Những tác phẩm có chất lượng trong cuộc thi được Ban Tổ chức chọn in thành tập Vọng làng đang thu hút sự quan tâm của các bạn yêu thơ.
Đến với văn chương, mỗi người có một cách cảm nhận khác nhau nhưng có lẽ đa số bạn đọc đều tán thành quan điểm cho rằng, một bài thơ hay cần phải có “chất thơ”. Tức là phải có một vẻ đẹp nhất định về ngôn từ, hình ảnh, ý tứ… Trong cuộc thi này, ta bắt gặp khá nhiều bài có tứ thơ độc đáo. Trong bài Gồng gánh, Hà Kiều My đã diễn tả rất hay hình ảnh tảo tần của người mẹ gánh hàng rong kiếm tiền nuôi con ăn học: “Gầy đôi vai / Mẹ gánh đêm quành qua từng phố nhỏ (…) Con phố ngoái đầu theo bóng mẹ / Hun hút…”. Tác giả đã dùng thủ pháp đảo ngữ “Gầy đôi vai”, thủ pháp nhân hóa “con phố ngoái đầu” và cách kết hợp từ mới lạ “Mẹ gánh đêm”. Bài thơ không chỉ hay ở câu chữ mà còn thấm đẫm ý nghĩa nhân văn. Bởi vậy, trung thành với “hiện thực” không nhất thiết phải cứ diễn đạt nôm na, vần vè. Người ta thưởng thức thơ là thưởng thức tài nghệ của tác giả. Cái tài ấy được thể hiện qua sự sáng tạo ngôn từ. Những bài thơ có cách diễn đạt mới lạ thường được đánh giá cao. Có thể dẫn ra một vài ví dụ về cách diễn đạt sáng tạo của các tác giả trong cuộc thi: “Em đi dưới bóng dừa xanh / Nghìn con mắt lá trên cành xôn xao / Xé mây làm dải lụa đào / Buộc bao mơ ước gửi vào mắt xanh” (Thần tượng – Vũ Hoàng Giang). Hoặc: “Dấu xưa gõ ngoằn ngoèo ký ức / Tóc rẽ chiêm bao ngỡ cỏ xanh” (Người ngồi trên xe ngựa – Hoàng Ngọc Anh). Đến với thơ là đến với cuộc chơi chữ nghĩa nên không ai thô thiển đến mức bắt bẻ các chi tiết “xé mây”, “tóc rẽ chiêm bao”…
Đến với tập thơ Vọng làng do Hội LH VHNT Phú Yên xuất bản, nhiều bạn có mong muốn được chiêm ngưỡng vẻ đẹp của đất và người Phú Yên trong văn học. Con sông Đà Rằng được các thi sĩ tô điểm bằng những sắc màu rực rỡ: “Ta ở cuối dòng sông đầy nhan sắc / Trăng rùng mình mấy nhịp hỡi đò / Xưa đặt tên Đà Rằng nao nức sóng / Lời sông Ba phóng khoáng bao giờ” (Lời núi – Trần Văn Lan). Còn đối với Ma Joan, sông Ba không chỉ mang vẻ đẹp cổ tích mà còn mang vẻ đẹp hiện đại, không chỉ tô điểm vẻ đẹp thiên nhiên mà còn thúc đẩy sự phát triển của kinh tế tỉnh nhà: “Chiều trên sông Ba Hạ / Hoàng hôn nhũ buông / Chợt đất trời phát quang / - Kỳ thạch / - Em / - Dòng sông / Hay lưới điện hòa nguồn ?…”. Trong tập thơ, ta còn bắt gặp một “miền Trung nhuần hậu” trong thơ Đào Đức Tuấn, một làng cổ ven sông Chùa của Lê Anh hay một thị trấn Phú Thứ sầm uất trong thơ Hoài Niệm. Ta cũng bắt gặp một Phú Yên anh dũng kiên cường trong thơ của Bằng Tín, Trần Tử Minh, Thạch Bi Sơn, Trần Văn Phú… Và còn nhiều nữa, mỗi người tô điểm cho vẻ đẹp quê hương theo một cách khác nhau.
Bài thơ đoạt giải Nhất cuộc thi này là Vọng làng của Đào Tấn Trực. Tác phẩm mang vẻ đẹp hài hòa cả về nội dung lẫn hình thức. Tác giả sử dụng thể lục bát truyền thống để diễn tả nỗi lòng hoài vọng quê xưa. “Có đi về phía con đường / Mới xa xóm vắng, mới thương quê nghèo”. Hình ảnh “con đường” mang tính biểu trưng chỉ việc đi xa, cũng như Chế Lan Viên đã từng dùng hình ảnh con tàu để thể hiện khát vọng lên Tây Bắc. Hành trang ra đi của chàng trai 17 tuổi là những lời mẹ ru cùng những cảnh vật quê hương: “Nằm nghe con sóng quê nhà / Một vùng ký ức khói là là bay / Trăng nghiêng xuống ngọn tre gầy / Rạ rơm sương khói quyện đầy lời ru”. Tác giả đã dùng những hình ảnh đẹp để diễn tả những kỷ niệm đẹp mà bây giờ chỉ còn là quá khứ: “Mẹ giờ đã hóa mùa thu / Câu ca dao cũ hình như lỡ làng”. Mùa thu lá rụng, kết thúc một chu kỳ sinh trưởng, mẹ giờ đã đi vào lòng đất, không còn cất giọng ru con. Người bạn gái năm nào cũng đã sang ngang (“Em toan tính chuyện bước qua lời nguyền”). Câu hát xưa của mẹ và cả người yêu đều đã “lỡ làng”. Biết vậy, nhưng chàng trai vẫn trở về chốn cũ: “Huơ bàn tay gọi đò sang / Chở tôi về dưới cổng làng ngày xưa”. Dĩ nhiên, ta biết đây chỉ là cuộc hành trình trong tâm tưởng. Và cả con đò, cổng làng cũng chỉ mang tính biểu trưng chỉ những hình ảnh thân quen trong đời sống dân tộc xưa nay. Không phải ngẫu nhiên mà Ban biên tập đặt tên cho tập thơ là Vọng làng. Đây là một nhan đề hay, có cách kết hợp từ mới mẻ và mang tính nhân văn sâu sắc, thể hiện niềm yêu quý những giá trị truyền thống. Nhan đề khái quát được phần nào tinh thần chung của cả tập thơ: hiện đại về hình thức nghệ thuật mà vẫn thấm đẫm những nội dung mang tính dân tộc. Tức là thể hiện đúng tinh thần phấn đấu cho một nền văn hóa tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc.
.
TS PHẠM NGỌC HIỀN

Ý KIẾN TRAO ĐỔI

Ý KIẾN CỦA NHÀ VĂN HẢI SƠN
XIN ĐỪNG PHÁN XÉT VÔ TÂM

Ở Phú Yên có nhiều mẫu chuyện văn chương tầm phào, vô bổ , nhắc đến cười ra nước mắt . Trước đây có các bài thơ “ Ông già ” của Thanh Quế , “ Ngọn cỏ tịch điền ” của Trần sĩ Huệ, tiếp theo “ Nếu không muốn đi hết một con đường ”của Nguyễn Phong Việt tất cả đều đem ra phán xét là những bài thơ có vấn đề về “ chính trị ” . Rồi vụ việc cũng được các cơ quan chức năng vào cuộc, thẩm định đi đến kết luận không có vấn đề gì . Nhưng trước khi kết thúc nghi án văn chương của thơ ca, có không ít chuyện nổi đình, nổi đám, tốn bao giấy mực giới văn nghệ sĩ, làm nản lòng những người cầm bút nhiệt huyết của Phú Yên .
Gần đây một sáng mùa xuân, tôi mở email nhận được bức thư của bác Nguyễn Kiến Thiết ( Tức Bảo Nhân )ở Phường 9 – TP Tuy Hoà, nội dung khen chê bài thơ lục bát “ Vọng Làng ” của tác giả Đào Tấn Trực đoạt giải nhất cuộc thi thơ của Phú Yên năm 2008.Thật ra ở đây, tôi chưa nói đến nội dung bài thơ hay-dở , chỉ nói ở khía cạnh nhân tình và pháp lý trong văn chương. Không biết bác Bảo Nhân có thành kiến gì với Đào Tấn Trực hay không ? Hoặc giả bác có cho rằng Hội đồng chấm giải chung kết cuộc thi thơ chưa thật sự sáng suốt thi cũng không nên xoi mói chuyện vặt vãnh bằng hành động gửi thư khắp nơi, gây tác động tâm lý hậu phán xét, gây phản cảm dư luận. Bác làm như thế được gì ? Trong khi cuộc thi thơ đã kết thúc . Giải đã trao, công luận cũng đã đón nhận . Mọi vấn đề gì đều phải tôn trọng sự thật khách quan . Những năm trước đây các cuộc thi thơ, truyện ngắn của Phú Yên đều do các nhà thơ, nhà văn Phú Yên chấm giải. sau đó có nhiều ý kiến lời ra, lời vào cho rằng họ chấm theo tác giả chứ không theo nội dung sáng tác. Nói gì thì nói cuối cùng cũng phải chấp nhận, tôn trọng hội đồng. Chính vì thế nên cuộc thi thơ lần này Hội liên hiệp VHNT Phú Yên đã chủ động mời nhà văn, nhà thơ của hai tỉnh bạn là Bình Định và Khánh Hoà tham gia hội đồng chung khảo. Hổng lẽ họ cũng chấm theo tác giả nữa sao .
Trong lời thư của bác Nhân nói rằng một số thi hữu Phú Yên ý kiến “ Bài thơ này mà nhất thơ 2008 thì vô tình hạ thấp (chưa đến nỗi hạ nhục ) vùng thơ đất Phú ...” Theo thiển ý của tôi, đây chỉ là suy nghĩ nông cạn của bác. Tôi chưa nghe nhà thơ nào của Phú yên phản ảnh như thế . Nếu có ai đó thì họ là những người vô tâm, tự chửi vào mặt mình . Một bài thơ hay hoặc dở của một cuộc thi đâu có ảnh hưởng gì đến vùng thơ đất Phú . Vô hình dung đi đánh đồng một bài thơ với cả vùng thơ thì thử hỏi các nhà văn, nhà thơ và những người yêu thơ chân chính của Phú Yên khộng sỉ nhục là gì ?Xin nhắc lại đôi điều về nội dung bài thơ giải nhất . “ Vọng làng ” sáng tác theo thể lục bát, gồm 18 câu . Tác giả hoài niệm ,ký ức về quê hương đồng nội. Tuổi thơ tuyệt đẹp, êm đềm. Chuyện quá khứ có chút ray rứt, nhớ nhung. Đối với câu từ, cú pháp gọn gẽ, hợp lý bao hết hàm ý, trọn vẹn tính nhân văn. Chất thơ đầy tính văn học. Có bốn câu thơ cuối bác Bảo Nhân chê tác giả tự “ đốt lưới nhà ”. “ Mẹ giờ đã hoá mùa thu . Câu ca dao cũ hình như lỡ làng ”. Ông cho rằng ca dao dù có lâu đời đi chăng nữa cũng không bao giờ cũ . Rồi viện dẫn hai câu “ Công cha như núi thái sơn . Nghĩa mẹ như nước trong nguồn chảy ra ”đi đến phân tích kết luận “không lẽ những hoài niệm, có cha sinh mẹ dưỡng đầy ắp kỷ niệm bây giờ lại lỡ làng sao ? Không lẽ trong cơ chế thị trường thì những lời giáo huấn cho con cháu phải biết đến công sinh thành cha mẹ lại lỗi thời ư ? ”.Xin thưa với bác Nhân rằng có lẽ bác đã hiểu nhầm ý của tác giả về hai câu thơ này. Ca dao cũ ngày xưa mẹ dạy cho con rất nhiều câu, đủ mọi lĩnh vực, chứ không phải như hai câu bác đã dẫn chứng. Chính vì lẽ đó khi tác giả trưởng thành vào đời, còn có nhiều điều thực hiện chưa được trọn vẹn, nên còn ray rứt khi người mẹ đã khuất. Những câu ca dao răn dạy của mẹ ngày xưa, tác giả liên tưởng “hình như lỡ làng ” nhằm mục đích xác nhận lỗi lầm, ân hận điều chưa làm được để tạ lỗi với mẹ . Còn hai câu cuối tiếp theo “ Huơ bàn tay gọi đò sang. Chở tôi về dưới cổng làng ngày xưa ”. Bác Nhân cho rằng thơ tả không thực. Ở Phú Yên làm gì có cổng làng . Tác giả chỉ là con mọt sách . Ông bảo phải ra tận miền bắc mới có cổng làng thực tế . Nói như bác thì thơ ca sáng tác hay làm sao được. Qua hai cuộc kháng chiến chống Pháp, Mỹ nhiều nhà văn, nhà thơ đâu có ra trận, chỉ nghe người thân, người yêu, đồng đội kể lại rồi hình dung cảnh vật, diễn biến họ vẫn sáng tác nhiều tác phẩm hay, để đời đâu phải nhất thiết phải có cổng làng thật thơ mới hay như bác nói . Còn nữa ! Bác khẳng định rằng ở Phú Yên không có cổng làng là không đúng . Đến các thôn, buôn trên toàn tỉnh nơi nào cũng có cổng làng hẳn hoi . Cổng để bản hiệu đề chữ : Thôn, buôn văn hoá .... Mặc dù nó không được xây dựng bằng gạch, vòm mái lá hoành tráng như miền bắc, nhưng chúng ta cũng phân biệt được đường vào thôn, buôn bằng chiếc cổng tượng trưng trên có lá quốc kỳ, sao bác mơ hồ đến thế. Nếu có nhìn nhận điều hãy cẩn trọng.Đầu năm mãn phép tản mạn đôi dòng về câu chuyện văn chương . Thơ ca cốt để làm trong sạch tâm hồn . Xin đừng phán xét vô tâm, điều không cần thiết .

Ý KIẾN TRAO ĐỔI

Thưa Quý người đọc! Trong mục Có người muốn xin "góp ý", nghesisonson có bost thư ông Nguyễn Kiến Thiết có ý kiến về bài thơ "Vọng làng" của Đào Tấn Trực (giải I thơ Phú Yên 2008). Thể theo nguyện vọng "xin góp ý" của ông NKT, nhà thơ Phùng Hi có bài trao đổi sau đây. Xin thưa trước, đây chỉ là một cuộc trao đổi-tranh luận ôn hoà và thẳng thắn về văn nghệ, ngoài ra không có mục đích gì khác.

TRAO ĐỔI VỚI ÔNG NGUYỄN KIẾN THIẾT VỀ BÀI THƠ “VỌNG LÀNG”
Phùng Hi
Mọi mặt của đời sống đều cần một sự phản biện (The analysis of action ), văn học nghệ thuật tất không nằm ngoài qui luật đó. Xây dựng một xã hội phản biện (Reactionary social action) luôn là yêu cầu bức thiết đặt ra với cộng đồng, xưa và nay.
Ông Nguyễn Kiến Thiết (NKT) không đồng ý với Hội Văn học - Nghệ thuật Phú Yên trao giải nhất cho bài thơ “Vọng làng” của tác giả Đào Tấn Trực, qua đó ông chỉ ra trong bài thơ có nhiều chỗ ông không vừa ý. Trước tiên bạn thơ tỉnh nhà xin cảm ơn ý kiến của ông, sau xin phép ông cho tôi được trao đổi đôi điều:
1. NKT cho rằng “Vọng làng” không xứng đáng giải nhất cuộc thi thơ năm 2008 do Hội cựu học sinh Phú Yên kết hợp với Hội Văn học - Nghệ thuật tổ chức. Vâng! Không ai ngăn cản sự phản biện của cá nhân ông. Nhưng để thuyết phục chí ít ông phải chỉ ra đôi bài thơ, đôi câu thơ ông cho là hay hơn “Vọng làng”, trên cùng chủ đề: Quê hương - Mẹ - Kí ức. Đằng này ông viết khơi khơi: “Ý tưởng này là ý hay nên đã có hàng ngàn bài thơ khai thác đề tài này. Điều này dễ gây cho độc giả sự hiểu lầm là tác giả đạo thơ”. Vu vơ hết chỗ nói. Xin ông đọc kỹ bài tổng kết về cuộc thi thơ của Chủ tịch hội Đào Minh Hiệp, để nắm rõ tiêu chí chấm thơ của Hội đồng giám khảo.
2. Có vẻ ông NKT chưa có kinh nghiệm phản biện và cũng chưa đủ “năng lượng chữ” nên không định hình được ý kiến của mình, hay còn gọi là lực bất tòng tâm. Ông bảo tác giả Đào Tấn Trực “tự đốt lưới nhà”. Hết bài viết, không thấy ông lí giải cái thuật ngữ bóng đá này, ám chỉ chỗ nào trong “Vọng làng”. Ông khẳng định câu ca dao cũ mà tác giả nhắc đến, chính là câu: “Công cha như núi thái sơn, Nghĩa mẹ như nước trong nguồn chảy ra”. Độc giả hãy xem NKT trích ca dao của dân tộc ta như vậy đấy, có mấy lỗi chính tả nhỉ? Xin ông đến thư viện mượn “Ca dao, tục ngữ” về đọc để làm vốn, chứ nhớ mỗi câu trên rồi qui cho tác giả quên công ơn sinh thành của cha mẹ, qua hai câu thơ rất nhân văn và đầy chất thơ của “Vọng làng”: “Mẹ giờ đã hóa mùa thu / Câu ca dao cũ hình như lỡ làng”, thì buồn cười thật đấy. Kết cho ông cái tội ưa qui chụp kẻ khác chắc là không ngoa tí nào. Ông còn nói: “…ca dao dù có ra đời lâu nhưng không bao giờ cũ”. Vâng, đó là ý kiến của ông. Tôi chỉ xin ví dụ: Tôi yêu một cô bạn xinh đẹp, được một năm thì chia tay. Tôi bảo: “Đó là người yêu cũ của tôi, tình cũ của tôi”. Trên thực tế cô ấy vẫn xinh đẹp như ngày nào, có cũ chút nào đâu, chỉ là cũ đối với tôi thôi. Đào Tấn Trực viết: “Câu ca dao cũ hình như lỡ làng”, đó là cách nói thơ, cách nói hình tượng. Ông có làm thơ, dù chưa hay, nhưng thủ pháp tối thiểu vậy, thiết tưởng không cần phải thêm.
3. Tác giả Đào Tấn Trực kết thúc bài thơ bằng hai câu lục bát nhiều hoài niệm thưở thiếu thời: “Hươ bàn tay gọi đò sang / Chở tôi về dưới cổng làng ngày xưa …”. NKT bảo: “… quê ta không hề có cổng làng. Cái cổng làng của tác giả chỉ là hình ảnh của cậu học trò mọt sách viết theo sách giáo khoa xưa”. Trước hết xin ông nhớ rằng bất kì người Việt nào, trong Nam ngoài Bắc kể cả Việt kiều, trong tiềm thức đều ghi dấu cái cổng làng. Chẳng lẽ trong ông quên mất cổng làng, quên mất nguồn cội? Một thời đi mở nước của cha anh, ông cũng quên tuốt rồi sao? Chẳng lẽ nhà văn, nhà thơ sống ở nơi không có “cây đa sân đình” thì khi viết, không được nhắc đến “cây đa sân đình”? Chưa hết, Đảng và Nhà nước ta chủ trương xây dựng thôn văn hóa, khu phố văn hóa; đi vào làng qua cái cổng ghi: “THÔN VĂN HÓA …”, đấy không phải cổng làng ư? Ông bảo tác giả “viết theo sách giáo khoa xưa”. Chết, chết, sách giáo khoa nay thì không có cổng làng à? Nguy hiểm quá.
Xin trao đổi với ông đôi điều như vậy. Mong ông và bạn đọc bình tĩnh suy xét trước sau để có những nhận định thấu tình đạt lí.

Đ.C: Nguyễn Phi Hùng, GV trường THPT Trần Quốc Tuấn.
Huyện Phú Hòa, tỉnh Phú Yên. ĐT: 0905612284. Email:phunghi2@gmail.com
Trích dẫn (0)

Ý KIẾN TRAO ĐỔI

Người gửi: Nguyễn Kiến Thiết Tuy Hòa, ngày 09 tháng 02 năm 2009
(Cán bộ hưu trí, hiện ở KP 3
Ninh Tịnh, P.9, TP Tuy Hòa)

Kính gửi: -Trung tâm Truyền hình Việt Nam tại Phú Yên (Hộp thơ khán giả)
-Báo Phú Yên (Ban bạn đọc)
Đồng kính gửi: -Tòa soạn Tạp chí Văn nghệ Phú Yên.
Nhân đọc tác phẩm dự thi cuộc thi thơ 2008 với bài “Vọng làng” của tác giả Đào Tấn Trực, có nhiều chỗ tôi chưa thông hiểu, vì không có điều kiện gặp tác giả nên nhờ quí cơ quan giúp đỡ, chuyển hộ ý kiến của tôi cũng là ý chung của thi hữu Tỉnh nhà để nhờ tác giả giải thích:
1.Theo tôi hiểu thì nội dung bài thơ là ý tác giả muốn thể hiện hoài niệm tuổi thơ của mình về quê nhà đồng nội (ý tưởng này là ý hay nên đã có hàng ngàn bài thơ khai thác đề tài này. Điều này dễ gây cho độc giả sự hiểu lầm là tác giả đạo thơ. Theo tôi thì tác giả là nhà giáo dạy văn thuộc rất nhiều thơ nên khi sáng tác có khi bị lậm thơ, cũng không nên trách cứ chỉ cần hay là được).
ý tưởng đẹp đẽ của tác giả đã thể hiện rất rõ qua phần đầu từ câu 1 đến câu 15. Đến ba câu cuối tác giả đã tự “đốt lưới nhà”, phản đề phần đầu:
“Câu ca dao cũ hình như lỡ làng” (câu 16)
Xin hỏi tác giả câu ca dao cũ là câu gì?
-Đi sau câu “Mẹ giờ đã hóa mùa thu”
Chắc chắn là câu: “Công cha như núi thái sơn, Nghĩa mẹ như nước trong nguồn chảy ra”.
Là thầy dạy văn chắc tác giả rất rõ là ca dao dù có ra đời lâu nhưng không bao giờ cũ. Tác giả khát khao hoài niệm tuổi thơ nơi đồng nội có cha sinh mẹ dưỡng, đầy ắp kỷ niệm êm đềm, bây giờ sao lại “lỡ làng”. Không lẽ trong cơ chế thị trường thì những lời giáo huấn con cháu phải biết đền ơn công sinh thành cha mẹ lại lỗi thời sao?
2.Hai câu cuối:
“Huơ bàn tay gọi đò sang,
Chở tôi về dưới cổng làng ngày xưa”.
Thưa tác giả chắc không lái đò nào có thể chở tác giả ra tận miền Bắc, xa quá tác giả ơi! Xin nhắc nhà thơ, nhà giáo là ở quê ta không hề có cổng làng. Cái cổng làng của tác giả chỉ là hình ảnh của cậu học trò mọt sách viết theo sách giáo khoa xưa. ở đây là một bài thơ nhất là bài thơ hoài niệm thì hình ảnh đồng quê phải thực phải sống; nếu hư cấu cường điệu thì tự làm mất giá trị mất cái hồn của bài thơ.
Sau khi nghe đài thông báo bài thơ “Vọng Làng” đăng quang Thơ Trạng 2008 quê nhà, nhiều thi hữu gặp tôi chỉ biết lắc đầu nói nhỏ:
-“Bài này mà nhất thơ 2008 thì vô tình hạ thấp (chưa đến nỗi hạ nhục) vùng thơ đất Phú, nơi có truyền thống yêu thơ, đã có phong trào thơ sôi nổi, sống với thơ hơn mấy mươi mùa nguyên tiêu quí giá”.
Rất mong nhận được lời giải thông của tác giả.
Xin cảm ơn quí cơ quan đã giúp đỡ.
Nguyễn Kiến Thiết
Bản sao kính gửi: Các bạn thơ Tỉnh nhà “để xin góp ý”

Thứ Sáu, 13 tháng 3, 2009

HƯƠNG VỊ QUÊ NHÀ


BÁNH TRÁNG HOÀ ĐA
Bánh tráng là một món ăn khá phổ biến của người Việt Nam từ xưa đến nay. Ở Phú Yên, món bánh tráng trở nên gần gũi với tất cả mọi người hơn bao giờ hết. Nó gắn với đời sống, đi vào văn hoá ẩm thực, không thể thiếu trong trong những lần nhà có đám tiệc…
Phú Yên có nhiều làng bánh tráng nổi tiếng nhưng ngon nhất phải kể đến bánh tráng Hoà Đa. Có lẽ người làm bánh có bí quyết gia truyền, kinh nghiệm riêng nên sản phẩm của họ làm ra hết sức độc đáo, đáp ứng thị hiếu người tiêu dùng. Chính vì thế, nơi đây có khoảng 20% hộ gia đình chọn nghề làm bánh tráng để mưa sinh. Bánh tráng Hoà Đa đã thành thương hiệu. Từ các làng quê, mỗi sáng bánh tráng theo những chuyến xe ra bắc vào nam.
Bánh tráng được làm từ bột gạo. Các công đoạn làm bánh thật đơn giản song cũng khá nhọc nhằn… Sau khi phơi khô, bánh được xếp thành từng chồng, bọc gói cẩn thận và có thể ăn bất cứ lúc nào. Bánh tráng ngon là loại bánh dày vừa, đều khổ, tốt nắng, nướng ăn thơm, nhúng nước không dính.
Ở Hoà Đa, bánh tráng đã trở thành món đặc sản. Mỗi sáng, các quán hai bên đường quốc lộ tấp nập khách Bắc Trung Nam. Bánh nhúng nước cuốn với thịt heo đùi luộc và rau sống tươi chấm nước mắn nhỉ làng Yến được coi là thượng sách. Một bữa ăn ngon phải hội tụ nhiều yếu tố. Mâm bánh tráng dọn lên đẹp mắt, hài hoà: dĩa thịt heo luộc mịn màng, trắng tinh; rau sống xanh tươi đủ loại; chén mắm nhỉ sóng sánh thơm ngon; dĩa ớt rừng xanh ngắt. Ăn kèm bánh tráng thịt heo cũng còn có các món khác như bánh hỏi, cháo lòng nếu bạn thích. Điều đáng nói ở đây là tất cả các món trong bữa ăn đều do bàn tay của con người nơi đây làm ra cho nên bữa ăn có mang hương vị rất riêng của một vùng đất. Món bánh vừa nhanh, tiện vừa gọn lại chất lượng cực kì. Người không ăn cơm nhưng trong bụng vẫn dảm bảo hàm lượng dinh dưỡng cần thiết.
Bánh tráng Hoà Đa được coi như một món quà dân dã. Người nông thôn bọc gói cẩn thận làm quà biếu tặng cho người thân của mình để thể hiện tình cảm, ơn nghĩa. Nó đơn giản thế nhưng giá trị lại nặng nghĩa tình. Bánh tráng cũng được làm quà mang đi xa, nhất là với những cô cậu sinh viên trọ học xa nhà. Bánh tráng Phú Yên ra Huế, Đà Nẵng vào Sài Gòn như một món quà quê góp phần động viên tinh thần của những đứa con đi xa cố gắng học hành, làm ăn…
Đối với người Phú Yên, bánh tráng Hoà Đa đã trở thành đặc sản, gây dấu ấn của một vùng quê nghèo nằm lọt thỏm giữa miền trung. Ai muốn thử món bánh quê tôi xin mời dừng chân ghé về thôn Hoà Đa trên đường quốc lộ 1A (cách TP Tuy Hoà chừng 14 km về hướng Bắc), bạn sẽ có một bữa ăn ngon lành như ý.


TUY AN

Thứ Hai, 2 tháng 3, 2009

BÀI CỦA BẠN BÈ

CHÍ PHÈO CÓ PHẢI LÀ CON RƠI CỦA BÁ KIẾN ?
.
Một kiệt tác văn học thường được bạn đọc giải mã theo nhiều cách khác nhau. Sự đa dạng trong cách tiếp nhận là một trong những yếu tố quan trọng để tạo nên sức sống của tác phẩm nghệ thuật. Có lẽ Nam Cao cũng không muốn truyện ngắn “Chí Phèo” chịu an phận trong một cách hiểu duy nhất. Lâu nay, nhiều người thường cho rằng Bá Kiến và Chí Phèo thuộc hai giai cấp đối kháng nhau: thống trị và bị trị, ngoài quan hệ chủ tớ ra thì không có mối quan hệ nào khác. Tuy nhiên cũng có người cho rằng: Chí Phèo là con rơi của Bá Kiến. Không cần phải về làng Vũ Đại điều tra lai lịch Chí Phèo, chỉ cần bám vào văn bản tác phẩm, ta cũng tìm được ít nhất ba chứng cứ sau để kết luận điều đó.
Một là: Bá Kiến là người háo sắc. Chỉ riêng về vợ đã có “bà cả, bà hai, bà ba, bà tư “. Ngoài ra còn phải kể đến những mối quan hệ lăng nhăng với các phụ nữ khác, như vợ của Binh Chức chẳng hạn. Và biết đâu trong số những người đàn bà đã từng ăn nằm với Bá Kiến có người đã mang thai với hắn. Để tránh dư luận xóm làng, người đó đã mang đứa trẻ sơ sinh ra bỏ lò gạch. Và như thế, một Chí Phèo ra đời.
Hai là: Trong lúc Chí Phèo rạch mặt đòi ăn vạ vì bị Lý Cường đánh thì Bá Kiến về tới nhà và hiểu ra cơ sự. Bá Kiến dìu Chí vào nhà và nói với giọng thân mật: “Ai chứ anh với nó còn có họ kia đấy”. Lâu nay, mọi người hiểu rằng, đó là thủ đoạn “mềm nắn rắn buông” của Bá Kiến. Tức là bịa ra chỗ “bà con ruột rà” để xoa dịu sự phản kháng của Chí Phèo. Nhưng biết đâu mối quan hệ máu mủ đó là sự thật: Chí Phèo và Lý Cường là hai anh em cùng cha khác mẹ (!) .
Thứ ba: Chí Phèo ngày xưa được coi như là người nhà của Bá Kiến và Chí được “quyền thu quyền bổ trong nhà tin cẩn”. Sở dĩ Chí được ưu ái như vậy là vì Bá Kiến cũng có chút tình cảm thầm kín với đứa con rơi vô thừa nhận. Sau khi ở tù về, Chí Phèo được Bá Kiến cho vườn và nhà. Mọi người nghĩ rằng: Bá Kiến cho tiền Chí là để biến anh ta thành tay chân đâm thuê chém mướn cho hắn. Nhưng thật ra, trong cái làng Vũ Đại nhỏ bé này, lâu lâu chỉ được vài vụ là phải dùng đến con dao của Chí Phèo. Món lời không được bao nhiêu mà phải cấp tiền cho Chí Phèo ăn nhậu hơn mười năm trời quả không phải là diệu kế của Bá Kiến. Trong ngần ấy năm chí Phèo không lao động mà vẫn nhận được sự viện trợ về tài chính từ Bá Kiến. Bất đắc dĩ Bá Kiến phải nuôi một thằng con rơi hư hỏng. Nhiều lúc cũng tận dụng tính liều lĩnh của con nhưng cũng không muốn con quá hư hỏng lười biếng để tạo gánh nặng cho mình. Trong đoạn cuối tác phẩm, Bá Kiến nói: “Rồi mà làm ăn chứ cứ báo người ta mãi à?”, “tôi chỉ cần anh lương thiện cho thiên hạ nhờ”. Đó là những mong muốn sự thật của Bá Kiến. Nhưng Chí Phèo đã xông tới quá nhanh đến mức Bá Kiến không kịp nói lên sự thật máu mủ. Và cũng là nhờ chưa biết mối quan hệ đó nên hành động của Chí Phèo không được coi là trái với đạo lý.
Ngoài ra, truyện “Chí Phèo” còn có nhiều chi tiết “lấp lửng” khó hiểu nữa. Chẳng hạn, Chí Phèo đi tù vì lý do gì ? Theo lời đồn thì “chí bị người ta giải huyện” là vì tội “lấy trộm tiền trộm thóc nhiều”. Có thể Chí Phèo chỉ bị ở tù vài năm rồi sau khi ra tù đi đâu đó “biệt tăm”, việc đó không liên quan gì tới Bá Kiến. Nhưng tại sao Bá Kiến lại không bào chữa cho đứa con rơi để Chí khỏi bị vào tù ? Có thể Bá Kiến cũng như nhiều người cha khác không muốn sống chung với thằng con trộm cắp hư hỏng. Vào tù, nó sẽ được cải tạo để trở nên tốt hơn. Sự có mặt của Chí Phèo trong nhà sẽ làm đổ vỡ hạnh phúc của gia đình cụ Bá. Nhất là Bá Kiến không muốn chứng kiến mối quan hệ mà ông cho là loạn luân giữa Chí với bà Ba vợ ông. Để Chí Phèo ra đi cũng có nghĩa là xoá đi dấu vết của mối quan hệ bất chính giữa ông và mẹ Chí Phèo. Chí đi tù, Bá Kiến trút được tất cả nỗi lo. Vả lại, theo lời Chí “ở tù sướng quá (…) có cơm để mà ăn” thì việc gì phải lo cho nó.
Có người sẽ băn khoăn đặt câu hỏi: Vậy, liệu Nam Cao có nghĩ tới mối quan hệ cha con giữa Bá Kiến và Chí Phèo không ? Việc đó không quan trọng, bởi tác phẩm văn học là một thực thể tồn tại độc lập. Bạn đọc căn cứ vào bản thân câu chữ trong tác phẩm, có quyền suy luận theo những hướng khác nhau, miễn là có chứng cứ thiết thực. Là một nhà văn tài năng, có lẽ Nam Cao cũng cùng quan điểm sau đây của một nhà lý luận văn học phương Tây : “Một tác phẩm chỉ tồn tại lâu dài khi nó có thể xuất hiện khác hẳn khuôn mặt mà tác giả đã tạo ra cho nó”.
PHẠM NGỌC HIỀN

Thứ Năm, 26 tháng 2, 2009

TẢN VĂN CỦA ĐÀO TẤN TRỰC

MÙA THI
Có thể nói mùa thi đã và đang song hành với bất cứ những ai từng ngồi trên ghế nhà trường. Trong quãng đời đi học không ít những người từng lo lắng mất ăn mất ngủ với mùa thi. Hai tiếng mùa thi có nhiều cách cảm nhận, tùy vào từng đối tượng mà nội dung thể hiện tên gọi cũng khác nhau. Đối với học sinh phổ thông, khái niệm mùa thi thường tập trung ở những kì thi học kì, thi chuyển cấp, tốt nghiệp hoặc cao hơn và rộn rịp hơn đó là mùa thi tuyển sinh. Đối với sinh viên, học viên khái niệm mùa thi càng trở nên thiêng liêng trừu tượng trong mỗi con người; mùa thi thường tập trung vào những ngày cuối học kì, kết thúc học phần, hết môn….Dù có khác nhau đôi chút về cách thể hiện, sự ưu tư lo lắng đối với từng đối tượng của một hoạt động diễn ra trong nhà trường nhưng tính chất chất đặc thù của mùa thi không có gì khác nhau.
Mùa thi theo ta gần hết một phần ba cuộc đời. Lúc ấu thơ là tiếng học bài vang vọng trong căn nhà nơi ngõ tối bên ngọn đèn dầu, lớn hơn chút nữa mùa thi là sự vô tư và lo lắng trong tiếng dặn dò của thầy cô với đám học trò, rồi những năm cuối cấp và sau này tính chất của mùa thi lại tỉ lệ thuận với tuổi của đời người. Có lẽ ta càng lớn, trách nhiệm và sự lo lắng trong mỗi con người cũng càng tăng nên ta cảm nhận mùa thi thật đúng nghĩa theo tên gọi của nó. Chính vì vậy mà mùa thi nặng dần với hành trang theo người đi học. Mùa thi gắn liền với sự vất vả, khó nhọc; mùa thi cũng gắn với những kỉ niệm ngọt ngào, khó quên. Để qua và có kết quả cao cũng như sự đỗ đạt đòi hỏi người đi học, đi thi phải nổ lực hết mình, thức khuya dậy sớm gồng mình với từng con chữ trên cánh đồng gian lao. Nhìn chung mùa thi thật đáng lo với những ai học hành một cách nghiêm túc. Khổ là vậy nhưng mùa thi cũng không ít những kỉ niệm vui buồn theo ta đến hết một đời. Có không ít những lần cả nhóm bạn kéo nhau đi học nhóm rồi giả vờ mượn sách của cô bạn gái học chung trường mặc dù chẳng để xem một thứ gì; có những đêm dưới bóng đèn đỏ quạch bên hành lang nơi giảng đường khuya khoắt từng cơn gió cuối đông tràn vào buốt cả thịt da mà đôi bạn vẫn chụm đầu bên trang sách chuẩn bị cho ngày mai thi sớm. Có nhứng lần đi học bài về muộn phải trèo tường vì quá giờ quy định bác bảo vệ đã đóng cổng…Mùa thi cũng mở đầu cho một cấp học, một môi trường mới đưa ta lớn dần lên, được đi nhiều nơi, có nhiều thầy cô bạn bè và đồng nghiệp. Mùa thi cũng là mùa chia tay ngăn cách, để lại bóng hình ai dưới tán phượng già một thời lưu luyến; tạm biệt sân trường, tạm biệt một thời mộng mơ để trở thành người lớn và bước vào đời làm ăn đích thực…
Tháng Năm đã về, mùa thi năm này cũng đã đến. Bây giờ các cô cậu học trò cuối cấp, các anh chị sinh viên năm cuối đang miệt mài đèn sách chuẩn bị cho một mùa thi quan trọng, có tính chất bước ngoặt trong đời. Đặc biệt nhiều năm nay, Bộ giáo dục đã ra chỉ thị “Hai không” nên việc học hành chuẩn bị thi cử lại càng vô cùng nghiêm túc. Nếu ai học hành không đàng hoàng, học qua loa để kiếm tấm bằng thì năm này nhất định sẽ không qua được mùa thi. Tôi có đứa cháu học cuối cấp, nó đang chuẩn bị cho một mùa thi sắp tới. Sợ không qua nên đêm nào nó cũng tỉ mẩn bài vở tới khuya, sáng ra lại dậy sớm tiếp tục. Nhìn thế tôi chợt nhớ lại một thời mình đi học, cũng lo lắng, cũng trách nhiệm như nó bây giờ.
Mùa thi là vậy, mùa thức khuya dậy sớm, giống như mùa làm đồng của người nông dân. Cánh đồng cho hạt lúa, mùa thi cho ta từng con chữ nên người, thực hiện ước mơ bản thân mai này xây dựng quê hương đất nước, đáp lòng mong mỏi của người thân. Mong sao các em có một mùa thi thật thành công.
ĐÀO TẤN TRỰC. (tuoitre online)

Thứ Ba, 24 tháng 2, 2009




HIU HẮT CHỊ TÔI

Trần Hồng Giang

Bốn mươi chị vẫn chưa chồng
Cũng đâu phải chị duyên không có gì!
Chị từng một thuở xuân thì
Với bao gã ngốc trồng si trước nhà.
Thế mà xuân vội đi qua
Để chị lại với la đà gió đông…

Thế gian quen miệng: Ế chồng!
Vô tình thế, để chạnh lòng chị tôi.
Sớm chiều nhìn cảnh lứa đôi
Chị sao tránh khỏi bồi hồi riêng tư.
Ở đời đâu thấy bao giờ
Có ai mong tiếng bà cô muộn chồng?!
Chỉ vì duyên phận long đong
Chứ chị cũng muốn má hồng đừng phai
Chị cũng muốn đêm không dài
Muốn cho gió lặng, sớm mai nắng về
Muốn mềm như cỏ triền đê
Như bạn cùng lứa yên bề chồng con.

Lệ khuya ướt gối tủi hờn
Ai thấu cho chị nỗi buồn lẻ đôi
Ông Tơ bà Nguyệt nửa vời
Se tơ kết tóc những nơi chốn nào!
Sao không lấy sợi chỉ đào
Rồi mang duyên thắm buộc vào chị tôi…

Thôi đừng hiu hắt chị ơi!
Chẳng thèm để ý miệng đời là xong!
Dẫu cho mang tiếng ế chồng
Thì lòng chị vẫn cứ không thấy buồn.
Sá chi một quãng đời xuân
Tiếc chi một bể trầm luân kiếp người.
Vô tư há miệng mà cười
Xem như mình đã chán đời đi tu!
Mơ màng chi những lời ru
Bướm vàng chê trái mù u đã già.

Chị ơi, hiu hắt chi mà!
Nắng lên bướm lại về qua lối này
Rồi duyên sẽ lại vào tay
Để chị hết những tháng ngày ủ ê
Thế rồi đến một chiều kia
Đò sang bến muộn, chị đi lấy chồng!..

T.H.G (lucbat.com)

Thứ Ba, 3 tháng 2, 2009

TẢN VĂN CỦA ĐÀO TẤN TRỰC



Ký ức THÁNG GIÊNG

Tháng giêng về cùng lúc với giao thừa, song hành cùng Tết nên người ta ít chú ý tháng giêng về khi nào. Chỉ biết sau những ngày Tết vui vẻ, sau các lễ hội đặc thù mang đậm sắc xuân ở các địa phương, con người mới sực nhận ra rằng, bây giờ đang là tháng giêng. Tháng giêng còn với ánh nắng vàng bắt đầu găng gắt rồi chầm chậm trôi qua, để lại trong lòng mỗi người nhiều nỗi nhớ khác nhau.
Tháng giêng trong tôi còn nguyên vẹn mùa kí ức tuổi thơ. Đó là màu hoa cải nở vàng bên luống rau mẹ cuốc sau hè, màu bông vạn thọ đong đưa dưới nắng đón những ngọn gió nồm từ biển thổi vào bắt đầu xao xác ngã nghiêng, màu xác pháo nhuộm đất tan vào trí nhớ, mùi của chiếc áo mới đầu năm phai dần; là vị ngọt ngào của chiếc bánh thuẫn còn sót lại, vị mặn mà của nồi thịt heo kho dưa cải mỗi khi cả nhà ăn cơm và mùa đến trường thêm tuổi mới với bao tiếng cười giòn tan vô tư của đám bạn quanh nhà…Tôi không hiểu sao bấy giờ kí ức tháng giêng trong tuổi thơ vẫn còn nguyên vẹn và nhiều khi khó giải thích hơn một giấc mơ.
Kỉ niệm chồng chất bao nhiêu năm rồi không rõ. Có lẽ hơn mười lăm năm. Hơn mười lăm năm không dài tôi không sống trong những ngày tháng giêng ở làng quê cũ . Kí ức tuổi thơ ngày ngày chìm dần vào dĩ vãng. Không nhớ không được và quên cũng không xong. Lẫn trong bộn bề cát bụi xoay vòng, lúc cô đơn, con người lại nhớ về quê và như thấy mình còn mang một món nợ lớn trong đời. Một năm một tuổi. Cuộc sống trôi nhanh hơn ta tưởng, thoáng chốc trẻ thơ bây giờ đã sợ già nua. Có lẽ cuộc sống là thế, khi còn trẻ con ta muốn mình làm người lớn, khi người lớn rồi ta cảm thấy lo cho nhiều việc rồi nuối tiếc tuổi thơ. Ngồi ngẫm lại mình, nhiều tuổi rồi đấy nhưng chưa làm được một việc gì tích sự, có khi tự hào với ba cái chữ trong đầu nhưng nhiều lúc cũng giận chính mình vì chưa quả quyết, không dám xả láng với bạn bè nhiều phen!
Mười tám tuổi xa nhà lưu lạc, kỉ niệm đôi lúc bỏ quên. Cô bạn hàng xóm ngại đi xa nên lấy chồng sớm nay con đã đến trường. Bạn bè thuở quần đùi chân đất vui sao giờ mỗi đứa một nơi, có người thành đạt, có người vẫn như xưa; không ai giống ai song một điều không thể thiếu là mọi người đều thêm tuổi mới. Tết nay về gặp mặt bao nhiêu là hớn hở vui mừng, dù sống thế nào thì cũng cụng ly lanh canh, chúc tụng ú ù vui vẻ để rồi ra giêng lại tiếp tục cuộc hành trình.
Bây giờ là tháng giêng.Ừ nhỉ. Tháng giêng bây giờ có khác ngày xưa. Với tôi, tháng giêng bây giờ là tiếng học trò cắn hạt dưa tí tách trong lớp học không sao cấm được, là lời mời của bạn bè về cạn chai rượu đầu xuân lúc chiều tan sở, là những cánh mai vàng vương vãi xuống thềm nhà chủ nhân phải đưa ra sân tưới nước, là suy nghĩ trở trăn năm này mình sẽ làm được gì, là nỗi lo tuổi mẹ chồng chất , là chiều chiều chứng kiến cảnh trên đường quốc lộ người ta đón xe đò tấp nập vào Nam…Ừ nhỉ, tháng giêng bây giờ là thế. Nhìn bên ngoài cũng có người ngây thơ như mình năm nọ, cũng có người tất bật như mình như hôm nay. Đúng là đời sống lợi danh cơm áo, đôi lúc con nguời cũng phải vượt qua nhiều thứ để giữ lấy cuộc đời cũng là lẽ đương nhiên.!
Tháng giêng là thế. Tháng giêng trôi đi đồng nghĩa với việc mình thêm một tuổi. Kí ức lưu kho cho cuộc đời sao mà vô vàng thế. Dễ gì nhớ, dễ gì quên.

Chủ Nhật, 1 tháng 2, 2009

KẾT QUẢ CUỘC THI THƠ NĂM 2008

3 CÂY BÚT ÁO TRẮNG ĐOẠT GIẢI THƯỞNG THƠ PHÚ YÊN 2008
Hội LH VHNT Phú Yên và Hội Cựu học sinh trung học Phú Yên vừa công bố kết quả chấm giải Cuộc thi Thơ Phú Yên năm 2008; với 11 tác phẩm của 11 tác giả được trao giải. Trong đó, giải nhất là bài thơ “Vọng làng” của tác giả Đào Tấn Trực (hiện là Trưởng GĐAT Phú Yên), một trong 2 giải nhì là bài thơ “Gồng gánh” của Hà Kiều My (thành viên GĐAT Phú Yên, hiện là sinh viên Trường Đại học KHXH-NV TP Hồ Chí Minh) và một trong 3 giải ba là bài thơ “Miền Trung” của Đào Đức Tuấn (nguyên Trưởng GĐAT Phú Yên). Ban tổ chức cuộc thi đã xuất bản tuyển tập các bài thơ vào chung khảo với tựa “Vọng làng” và Lễ trao giải được tổ chức vào Đêm thơ Nguyên tiêu Kỷ Sửu núi Nhạn-Phú Yên 2009.
Áo Trắng xin trân trọng chúc mừng và giới thiệu 3 bài thơ đoạt giải của các cây bút “nhà ta”.
HÙNG PHIÊN

Vọng làng
Có đi về phía con đường
Mới xa xóm vắng, mới thương quê nghèo
Ngày đi câu hát đi theo
Thị thành mơ mảnh trăng treo vườn nhà
Mười bảy tuổi tạm cách xa
Em toan tính chuyện bước qua lời nguyền
Đất nồng còn một chút duyên
Buộc quê với phố, buộc thuyền với sông
Buộc tôi với luống cải ngồng
Bãi bồi ai đắp cho đồng phù sa
Nằm nghe con sóng quê nhà
Một vùng ký ức khói là là bay
Trăng nghiêng xuống ngọn tre gầy
Rạ rơm sương khói nguyện đầy lời ru
Mẹ già đã hóa mùa thu
Câu ca dao cũ hình như lỡ làng
Huơ bàn tay gọi đò sang
Chở tôi về dưới cổng làng ngày xưa…
ĐÀO TẤN TRỰC (giải nhất)

Gồng gánh

Gầy đôi vai
Mẹ gánh đêm quàng qua từng phố nhỏ
Những con dốc thoai thoải dài
Sợ mẹ “mềm chân”…

Người mẹ gánh gồng cuộc mưu sinh
Lang thang trên từng hẻm vắng
Con phố ngoái đầu theo bóng mẹ
Hun hút…

Thời gian như thấy mình có tội
Thêm nhọc nhằn mái đầu bạc phơ
Con chữ đêm qua lại cựa mình trong giấc mơ của mẹ
Những đứa con điện về, xin tiền, đi học
Mẹ gánh lam lũ đi trên đôi vai nhấp nhô hình núi
Cõng cuộc đời đi về phía xa xôi
Bôn ba vượt nghèo
Đi tìm con chữ
Cái nắng óng vàng chiếc áo cũ sờn vai
Lấp lánh…

HÀ KIỀU MY (giải nhì)

Miền Trung
Lòng rao rát miền Trung nhuần hậumiền
Trung xa xăm ngun ngút khô cằn
thương cái rám nắng màu mây nhạt
câu thơ quắt queo không dịu tháng năm.
Miền Trung trong tôi tảo tần dáng mẹ
mẹ gũi gần, mẹ thăm thẳm bao dung
con rong rủi một đời mang nợ
lặng thầm triền mắt mẹ minh mông.
Và lẽ nào em cát gió mung lung
heo hút hồn tôi dặm dài nhung nhớ
em ban mai, em trưa hè nắng đỏ
chiều thời gian con sóng biển lặng nồng.
Miền Trung miên man, miền
Trung thênh thanglời nào thiêng liêng một rời hai gánh
quê hương đầy tim, quê hương tròn mắt
ký ức long long, ký ức ầu ơ…
ĐÀO ĐỨC TUẤN (giải ba)