Thứ Bảy, 13 tháng 12, 2008

TẢN VĂN CỦA ĐÀO TẤN TRỰC


BÁT NƯỚC CHÈ XANH.

Tôi biết đến bát nước chè xanh từ những ngày còn nhỏ. Quê tôi nằm ở vùng đất đỏ bazan quanh năm khí hậu mát mẻ phù hợp với các loài cây nhiệt đới, trong đó có cây chè.

Cuối thập niên bảy mươi và đầu những năm tám mươi của thế kỉ trước, sau cuộc vận động kinh tế, khai hoang vỡ hóa vùng đất này,quê tôi trở thành một nông trường chè của huyện.Ngoài ban giám đốc,phần lớn công nhân lao động chủ yếu những người ngoài các tỉnh từ bắc miền Trung trở ra vào đây lập nghiệp.Tôi còn nhớ có chú Hạ ,cô Quyền người Nghệ An. Cô chú tham gia thanh niên xung phong trong chiến tranh rồi đất nước giải phóng hai người dắt nhau về quê,đất chật người đông không có việc làm nên cả hai lặn lội vào đây.Những ngày đầu vào nông trường cô chú ở nhờ nhà tôi, gia tài mang theo chỉ có vài bộ áo quần bộ đội và một cái điếu cày đầu bịt nhôm đã lên nước bóng nhoáng. Mờ sáng, chú thường ngồi ở hiên nhà với ấm chè xanh hái từ chiều hôm trước ngoài nông trường om qua đêm. Chú uống bát chè nóng, rít hơi thuốc Lào thay bữa ăn sáng rồi cả hai cùng đi làm.Từ ngày có chú Ha,ï cô Quyền nhà tôi cũng vui hẳn lên. Tuy là nồi riêng nhưng có những chiều ăn cơm chung thật đầm ấm.

Cha tôi cũng bắt đầu uống chè xanh từ khi đó.Chú Hạ lấy làm vui nói: Chè xanh thơm lắm ông cụ à, nó thường chống được bệnh cảm ho thông thường ấy. Cha lấy làm đắc chí và dần dần chuyển sang uống chè xanh hẳn. Mỗi lần đi làm bên nông trường về chú Hạ không quên mang về một nắm, chú còn chỉ cha cách om chè đúng kiểu như người ngoài Bắc . Phải chọn lá không quá non hoặc quá già,nếu lá non sẽ loãng nước,lá già quá sợ mất vị thơm,lá vừa sẽ keo nước, có vị thơm và vị chát uống rất ngon. Có hai cách om: hoặc dùng ấm đất cho nước lạnh vào đun thật sôi rồi vò lá chè vừa chuẩn bị xong cho vào ấm , bỏ vào một lát gừng tươi đậy nắp lại, dùng khăn vải bọc kín giữ nhiệt độ , hai tiếng sau có thể dùng ngon; hoặc dùng ấm thường đun nước sôi rồi vò chè bỏ vào và bớt lửa hong trên than nóng nhẹ,cách này có thể dùng ngay nhưng không lâu và ngon như cách trên. Tôi nhiều lần om chè cho cha và cũng biết uống bát chè xanh lần đầu ở quê nhà.Sau này lớn lên tôi phải đi học xa nhà.

Từ biệt gia đình, cô Quyền chú Hạ tôi vào tỉnh rồi dần dần đi xa hơn. Nơi tôi trọ học một thời gian dài là vùng đất cố đô kinh kì-thủ phủ một thời đế vương phong kiến tồn tại gần hai thế kỉ trên đất nước ta. Chính vì vậy mà cuộc sống và con người nơi đây có những nét gì đó rất lạ so với nơi khác;họ trang nghiêm ,lễ giáo, nặng tình người…Ở đây được làm quen với những người bạn miền ngoài, tôi biết và học được ở họ nhiều điều về cuộc sống, văn hóa mà vùng đất Phú của tôi không có. Trong muôn vàn cái riêng chung đó,có bát nước chè xanh. Cái hôm Bố thằng Hiếu, bạn học cùng lớp , ở cùng phòng vào thăm, ông mang theo đủ thứ quà quê. Sau một đêm dốc bầu tâm sự, sáng hôm sau tôi thấy ông lấy từ trong ba lô ra một nắm chè xanh cho vào cái ấm cũ của tụi tôi đã lên màu đen vì khói lồ xô, ông cặm cụi đun và lấy bì kẹo lạc ra nhâm nhi cùng bát nước chè nóng trước khi lên tàu về Nghệ An. Vừa ngồi với nhau ông vừa nói: Choa thấy ở đầu hẻm có O bán cơm Hến, sáng tụi mi ra đó ăn một bát lót dạ rồi đi học, ở đó có nước chè xanh… Từ đó tôi và thằng Hiếu còm sáng nào cũng ra ăn tô cơm hến 1000 đồng và uống chén chè xanh rồi mới đạp xe lên giảng đường, lâu ngày tụi tôi và O bán cơm Hến trở nên thân tình. Ngày ra trường, tôi và Hiếu chuyển đồ ra đầu con hẻm, O nhìn tụi tôi vẫy tay nghẹn ngào: Tụi mi đi mạnh khỏe, khi mô trở lại ghé thăm O hè...Lâu rồi tôi chưa trở lại nơi này!

Tôi được phân công làm việc dưới đồng bằng. Do thời buổi công nghiệp nên con người cũng phải tất bật như những cỗ máy để mưu sinh. Buổi sáng uống li caphê vỉa hè trong vội vã, bạn bè chưa kịp hỏi chuyện với nhau đã đến giờ. Cứ thế một ngày, một tuần trôi qua…Chiều cuối tuần lại phải tranh thủ chạy về quê thăm mẹ. Mỗi lần như thế tôi không quên hái nắm chè xanh mang về thành phố, bạn bè thấy vậy bảo mày giống ông cụ Bắc kì quá, tôi cười – sợ không giống đấy chứ.

Gần đây rải rác trên báo đài có nói về uống chè xanh sẽ phòng được bệnh ung thư. Thế là họ đổ xô nhau đi tìm chè xanh mà uống, nhưng ở vùng đồng bằng cát trắng dọc duyên hải miền Trung tìm đâu ra. Lên chợ không thấy bán, về quê thì không có. Nghe bạn bè mách bảo họ tìm đến tôi, mấy chị trong cơ quan luôn miệng thứ bảy này em có về quê(thật tình mấy năm rồi có người có biết quê tôi ở đâu). Oâng Sếp trong cơ quan lại bảo khi nào về mang xuống cho bố nguyên một cây cả gốc lẫn rễ. Chiều lòng tôi cũng hì hạch mang từ vùng đất đỏ xuống, chỉ mấy tuần sau là cây ra bờ rào nằm.Thì ra loại cây khó tính này cũng kén đất dữ hè.

Đến cuối những năn chín mươi , vì làm ăn thua lỗ nên nông trường đã giải thể để lại một vùng đồi hoang hóa hơn trăm hecta. Những gốc chè to bây giờ không còn thẳng luống như ngày xưa nữa, nó khiêm nhường nằm khép mình dưới một rừng keo tai tượng rì rào trong gió…Và cuối mỗi tuần nó lại âm thầm cung cấp lá, hạt cho tôi mang về dưới xuôi. Cảm ơn các bài báo, vì “nhà ngươi” mà mọi người quan tâm đến ta. Những khi om chè tôi lại nhớ cô Quyền chú Hạ , không biết bây giờ họ đang ở đâu.
ĐTT
(THEO NGƯỜI ĐƯƠNG THỜI)

Không có nhận xét nào: