Thứ Bảy, 20 tháng 12, 2008

TRAO ĐỔI HỌC HÀNH THI CỬ


Vì sao học sinh “né” kỳ thi học sinh giỏi quốc gia?
Có mặt trong đội tuyển thi học sinh giỏi quốc gia là niềm mơ ước của rất nhiều học sinh. Tuy nhiên hiện nay, nhiều em lại không mặn mà với kỳ thi này, thậm chí còn tìm cách “né” để không phải dự thi.Đội tuyển dự thi học sinh giỏi quốc gia năm học 2008-2009 môn Địa lý đang ôn luyện - Ảnh: T.HẰNG

SỨC HÚT GIẢM

Là một trong những trường chủ lực trong việc rèn luyện, bồi dưỡng học sinh tham gia kỳ thi học sinh giỏi quốc gia, vậy nhưng hai năm gần đây, Trường THPT chuyên Lương Văn Chánh gặp nhiều khó khăn trong việc kêu gọi học sinh tham gia kỳ thi này. Thầy giáo Nguyễn Văn Tăng, Hiệu trưởng Trường THPT chuyên Lương Văn Chánh cho biết: Nếu như các năm trước, học sinh cạnh tranh để được vào đội tuyển học sinh giỏi dự thi cấp quốc gia thì nay các em lại lẩn tránh kỳ thi này. Nguyên nhân là Bộ GD - ĐT bỏ tuyển thẳng vào đại học, cao đẳng đối với học sinh đạt giải học sinh giỏi quốc gia. Chính vì vậy mà nhiều học sinh không còn động lực để tham gia kỳ thi học sinh giỏi quốc gia.

Học sinh trong đội tuyển dự thi học sinh giỏi quốc gia được lựa chọn từ kỳ thi học sinh giỏi cấp tỉnh. Để “né” không phải vào đội tuyển, ngay từ kỳ thi học sinh giỏi lớp 12 cấp tỉnh, nhiều học sinh làm bài không đúng với năng lực của mình, thậm chí bỏ giấy trắng. Thầy Tăng nói: “Không chỉ làm bài không đúng với năng lực, một số em khi gần đến ngày tập trung đội tuyển dự thi thì lại xin không tham gia. Năm nay, toàn tỉnh có 57 học sinh vào đội tuyển dự thi học sinh giỏi quốc gia, trong đó Trường THPT chuyên Lương Văn Chánh có đến 46 học sinh. Ngay khi Sở GD - ĐT công bố danh sách học sinh được chọn vào đội tuyển dự thi học sinh giỏi quốc gia, rất nhiều em xin ra khỏi đội tuyển. Ban giám hiệu nhà trường và giáo viên phải phân tích, động viên rất nhiều các em mới đồng ý tham gia”.
Không chỉ phụ huynh, học sinh không mặn mà, các trường THPT cũng không hào hứng với kỳ thi học sinh giỏi quốc gia vì điều đó không đánh giá hết chất lượng đào tạo của trường. Cô giáo Nguyễn Thị Thùy Tiên, giáo viên chuyên bồi dưỡng học sinh giỏi quốc gia cho biết: “Vài năm gần đây, phụ huynh và học sinh chủ yếu tập trung vào kỳ thi tuyển sinh đại học. Với một học sinh giỏi, khả năng giành vị trí thủ khoa kỳ thi tuyển sinh đại học nhiều khi còn dễ hơn là phải ôn tập thi học sinh giỏi quốc gia”.

THIẾU ĐỘNG LỰC ĐỂ PHẤN ĐẤU
57 học sinh được chọn vào đội tuyển dự thi học sinh giỏi quốc gia đang được bồi dưỡng tại Trường THPT chuyên Lương Văn Chánh. Tuy mỗi môn chỉ có 6 học sinh nhưng giờ học rất nghiêm túc. Theo cô Tiên, chương trình bồi dưỡng học sinh giỏi quốc gia không giống với nội dung kiến thức ôn tập tuyển sinh đại học, cao đẳng. Vì vậy, nếu dồn sức cho kỳ thi học sinh giỏi quốc gia, các em sẽ gặp khó khăn trong việc ôn tập thi đại học, cao đẳng. Chính điều này đã làm học sinh không muốn tham gia kỳ thi học sinh giỏi quốc gia. Một học sinh của Trường THPT chuyên Lương Văn Chánh bộc bạch: “Khi biết em tham gia đội tuyển thi học sinh giỏi quốc gia, ba mẹ không bằng lòng chút nào. Nhưng vì truyền thống của trường, vì thầy cô giáo và để khẳng định mình, em sẽ cố gắng. Dù vậy, em vẫn lo nếu trong kỳ thi tuyển sinh đại học, em không đạt kết quả cao thì ba mẹ sẽ buồn lắm”.

Lực lượng chủ lực tham gia thi học sinh giỏi quốc gia của tỉnh Phú Yên là học sinh Trường THPT chuyên Lương Văn Chánh. Từ khi Bộ GD - ĐT quyết định bỏ tuyển thẳng đối với học sinh giỏi quốc gia, học sinh của trường này dần dần “né” kỳ thi này. Đây cũng là điều dễ hiểu. Thầy Tăng nói: “Trước đây, vì được tuyển thẳng nên học sinh dồn hết sức cho kỳ thi học sinh giỏi quốc gia. Khi quyền lợi này không còn, các em tập trung sức để thi đại học, vì hiện nay xã hội đề cao thủ khoa đại học hơn học sinh giỏi. Trường dùng hình thức khen thưởng để kích thích học sinh tham gia, nhưng vì kinh phí hạn hẹp nên việc khen thưởng chưa đủ để hâm nóng nhiệt tình của các em”.
Theo các trường, muốn thu hút được học sinh tham gia kỳ thi học sinh giỏi quốc gia, Bộ GD - ĐT nên phục hồi chính sách miễn thi đại học. Có như thế, việc đánh giá chất lượng đào tạo giữa các trường trên toàn quốc mới đảm bảo khách quan, đúng thực chất.r
MẠNH THÚY
phuyenonline

Thứ Năm, 18 tháng 12, 2008

TẢN VĂN CỦA ĐÀO TẤN TRỰC




Niềm vui neo giữ phận người


Tôi bước vào trường Sư phạm như một sự tình cờ nếu không nói là bất đắc dĩ.Tôi nói như vâỵ hoàn toàn dựa vào những điều thực tế của bản thân. Số là ngày trước tôi học một ngành khác, ngành Y. Năm 1996 tôi tốt nghiệp Y sỹ hệ chính quy, đây là khoá Y sỹ chính quy cuối cùng trong hệ thống đào tạo cán bộ Y tế cơ sở. Ra trường, tôi tình nguyện xin về công tác tại một xã miền núi nhưng lần lừa mái mấy năm trời không được. Không biết vì lý do gì. Sau đó tôi xin đi dự thi lớp Bác sỹ hệ chuyên tu tại Huế với nguyện vọng sau này về phục vụ cho xã nhà. Bởi quê tôi là một xã miền núi nên từ trước đến tận bây giờ vẫn không có một Bác sỹ nào chịu về công tác. Tôi khăn gói lên đường tiến thẳng cố đô. Được vài ngày, tôi nhận tin từ phòng Đào tạo Trường Y báo hồ sơ đồng chí không hợp lệ, phải có giấy chứng nhận công tác ở địa phương. Tôi trở về xã mong xin được tờ giấy đó nhưng rồi không được..!Tôi nghĩ, chẳng lẽ cuộc đời mình chấm hết ở đây! Tôi sẽ chứng minh khả năng của mình cho mọi người xem. Thế là tôi nộp đơn thi vào trường Sư phạm.
Một điều phải đáng công nhận như một định luật là thời gian. Ba năm trung học chuyên nghiệp, bốn năm thất nghiệp rồi bốn năm trong trường sư phạm, thế là hơn 10 năm, tuổi trẻ của tôi vèo một cái trôi tuột bên thềm. Bây giờ ngồi nhìn lại, tiếc thật.
Vào môi trường mới, tôi không ngừng cố gắng. Có nhiều kỉ niệm về trường lớp, thầy cô bạn hè học tập thật đáng nhớ, song nhớ nhất là ngày đi thực tập sư phạm; sau tiết dạy đầu tiên, cô giáo hướng dẫn chuyên môn bảo : “Nhìn tướng mạo trông giống thầy giáo thật đấy, sau này em có khả năng trở thành một giáo viên giỏi về chuyên môn.” Nghe vậy, tôi mừng rớn người, tôi nói với cô rằng em sẽ cố gắng hết sức. Cô nhìn tôi cười thân thiện như một niềm hi vọng còn đang phía trước, lúc này tôi thấy cô đẹp hơn bình thường. Sau đợt thực tập, tôi được nhà trường đánh giá, xếp loại xuất sắc.
Trở thành sinh viên sư phạm, công việc của nghề cũ gần như trôi vào dĩ vãng. Không phải tôi quên nhưng những gì cần làm tôi phải làm.. Ngoài học, tôi còn tập trung vào nghiên cứu và sáng tác, phải nói tôi rằng tôi là người hơi có duyên với văn chương cho nên những năm sinh viên tôi có bài đăng thường xuyên trên các tờ báo. Việc làm đó kéo tôi về với văn chương sách vở gần hơn.
Ngày ra trường, tôi vinh dự so với nhiều bạn bè cùng khoá, tôi có được hai tờ quyết định đi làm cùng một lúc( có lẽ ông trời bù lại lúc trước): một của Sở Giáo dục gọi đi dạy và một của một cơ quan báo chí hợp đồng làm phóng viên. Tôi thấy khó khăn với cách lựa chọn của mình. Mẹ bảo: con làm thầy giáo sau này sẽ có nhiều học trò, tâm sáng và được gần nhà, công việc ổn định. Ngoài gia đình, nhiều bạn tôi cũng khuyên tôi như vậy nhưng tôi thì tôi chán gần nhà lắm rồi; vả lại tôi thích được tựdo, đi nhiều, tôi muốn nghề báo…Một thời gian ngắn cần phải quyết định, cuối cùng tôi nghe lời mẹ, tôi thành thầy giáo ngon lành.
Tôi được phân công dạy ở một trường THPT lớn nhất huyện. Mấy tuần đầu tiên lên lớp vui nhiều. Học trò cứ ngơ ngẩn hỏi lâu giờ thầy dạy ở trường nào. Tôi bảo tôi mới vào nghề nhưng chúng nó không tin. Nó bảo thầy lớn rồi mà mới vào nghề. Tôi nói các em nên tin đi, làm thầy giáo không nói dối ai bao giờ, nhất là với học trò. Nó bảo vậy mà thầy B nay nói dối lắm thầy ơi. Tôi trợn mắt, cả lớp hình như sợ tôi ngồi im thinh thích.
Lớp học trò đầu tiên của tôi bây giờ có nhiều em ra trường đi làm rồi. chúng theo đủ nghề, đủ nghiệp, ra trường thất tán xa cách nhiều nơi. Lâu lâu chúng nó về quê ghé lại thăm thầy. Ngồi bên nhau thầy trò hỏi thăm đủ điều trong cuộc sống mới và nhắc lại những kỉ niệm trường lớp ngày xưa, qua những lần trò chuyện như vậy, tôi biết các em bây giờ cũng vất vả như tôi đã từng tìm việc ngày xưa.
Chủ nhiệm lớp là môt niền vui riêng trong những ngày đi dạy. Giáo viên không nhận được công tác chủ nhiệm khác nào gia đình thiếu vắng trẻ thơ. Cũng may năm sau, tôi được nhà trường phân công chủ nhiệm lớp ban C. Ngày nhận lớp 10, nhìn em nào cũng hiền từ trong sáng và thơ ngây, tôi hỏi bây giờ các em bầu chọn bạn nào làm lớp trưởng. Chúng nó bảo lớp mình toàn nữ, thôi bây giờ thầy làm lớp trưởng luôn đi. Tôi nói đồng ý, cả lớp vỗ tay hoan hô lớp trưởng, thật đúng là học trò hết chõ nói…Thế đấy ngày đầu tiên lớp tôi chủ nhiệm thế đấy.
Ngày tháng trôi đi, ba năm qua nhẹ nhàng như một giấc mơ .Ba năm có biết bao niềm vui, kỉ niệm; ba năm cũng không trách khỏi những nỗi buồn nhẹ len từ hai phía. Lớp có 44 học sinh, tôi biết tình tình, hoàn cảnh gia đinh, sức học của từng em một; ngược lại các em cũng biết tôi, kiến thức, lòng đam mê rồi khả năng của thầy…Biết để gắng bó đồng cảm sẻ chia, biết để cùng nhau khắc phuc phấn đấu tiến bộ trong cuộc sống ngày mai… Trong buổi liên hoan chia tay ngày các em ra trường thật vui và tình cảm, ai cũng nói ra những điều rất thật từ trong lòng mình. Những lời nói thật khiến cảm xúc con người nhiều khi không thể kiềm nén được buộc phải nghẹn ngào. Các em tốt nghiệp ra trường, bây giờ đang là sinh viên của nhiều trường Cao đẳng Đại học trên cả nước. Các em có cuộc sống, môi trường và thầy cô mới; cũng như thầy, thầy sẽ có những lớp học trò mới, chúng nó cũng dễ thương, học giỏi và đôi lúc cũng nghịch ngợm như các em ngày trước. Thế đấy, cuộc sống hợp tan là lẽ thường mà chúng ta là người phải biết chấp nhận.
Thời gian đi dạy chưa gọi là dài lắm so với nhiều người khác nhưng bao nhiêu đó cũng đủ để tôi cảm thấy yêu nghề. Tình yêu đó không rõ hình bóng và cũng không thể định hình; tình yêu đó đủ để tôi biết nói lời cảm ơn với lời khen của cô giáo ngày xưa, đủ để tôi cảm thấy vững vàng yên tâm mỗi sáng mai xách cặp đến trường và khỏi khập khiễng khi bước lên bục giảng. Theo tôi, yêu nghề là gắn với trường lớp, công việc, học sinh, là tinh thần trách nhiêm, sự tận tâm và không ngừng học tập nghiên cứu; yêu nghề cũng phải biết tự trọng và biết đấu tranh bảo vệ lẽ phải, chống lại những gì gọi là a dua, ích kỉ và bảo thủ, yêu nghề cũng gắn với những trở trăn suy nghĩ tìm tòi phương pháp cho bài học tương lai…Phải nói,gắn với trường lớp quen rồi, những ngày nghỉ phép hoặc đi công tác, tôi cảm thấy như thiếu vắng một cái gì đó; hoặc những khi bản thân có điều không vui, vào lớp nhìn thấy gương mặt trong sáng thơ ngây của các em, những muộn phiền cuộc sống tan biến đi đâu cũng không biết nữa.
Nghề giáo là một nghề được xã hội tôn vinh từ xưa đến giờ. Bằng chứng chỉ rõ vào những việc làm thiết thực mà nhà nước ta đã và đang thực hiện. Trên bình diện chung của cả nước và truyền thông hiếu học của dân ta, tôi rât tự hào với công việc của mình. Nhưng trong một góc độ nào đó, hình tượng người thầy giáo trong cách nhìn của nhiều người ngày nay, giá trị không còn nguyên vẹn như xưa nữa. Biết giải thích làm sao đây. Một điều thật lạ kì, ngày nay người người nhà nhà cho con đi hoc , ai cũng mong muốn con mình thành người tại sao lại có một cái nhìn lệch hướng về người thầy như vậy. Biết rằng không thể tránh khỏi những chấm đen nhỏ đáng tiếc hằng năm mà báo đài đã lên tiếng, đất nước ta ngày ngày vẫn có hàng triệu triệu thầy cô giáo miệt mài chèo đò trên dòng sông rộng gian lao. Ở đó hình ảnh người thầy trong mắt của bao thế hệ người Việt Nam cứ lung linh toả sáng không ngừng. Thế mà, trong bộn bề cuộc sống hôm nay, đôi khi ngoảnh mặt nghe nhiều câu mà bản thân mình làm thầy giáo không khỏi bùi ngùi. Đồng ý thầy giáo nghèo vật chất, nhưng nghèo về tinh thần xin nói là không. Có người bảo lương không cao làm sao tâm sáng được… Xin nói lương tâm không liên quan gì với lương bỗng, chỉ sợ cái khác thôi.
Hơn năm năm đi dạy, buồn vui va chạm có rồi. Có lúc muốn chuyển nghề để đạt được nhiều mục đích khác nhưng rồi thôi. Cái duyên trong đời nhiều khi không ngờ được, và chính những điều không ngờ đó đã buộc chặt mình với một ai.

DTT
(Theo tuoitreonline)

Thứ Hai, 15 tháng 12, 2008

THƠ ĐÀO TẤN TRỰC


Tìm lại em ngày xưa


Đừng sống sượng
những lời ngoài ngoài lồng ngực
dù cố gắng vẫn trở nên vô nghĩa

Sao em thường những chuyện đâu đâu
lờ mờ giọng nói
như loài chim di cư hết mùa tìm chốn

Sao em ngày càng giống họ
Điều đó chỉ có thể mãi mãi
xa… ngày xưa.

ĐTT

Thứ Bảy, 13 tháng 12, 2008

TẢN VĂN CỦA ĐÀO TẤN TRỰC


BÁT NƯỚC CHÈ XANH.

Tôi biết đến bát nước chè xanh từ những ngày còn nhỏ. Quê tôi nằm ở vùng đất đỏ bazan quanh năm khí hậu mát mẻ phù hợp với các loài cây nhiệt đới, trong đó có cây chè.

Cuối thập niên bảy mươi và đầu những năm tám mươi của thế kỉ trước, sau cuộc vận động kinh tế, khai hoang vỡ hóa vùng đất này,quê tôi trở thành một nông trường chè của huyện.Ngoài ban giám đốc,phần lớn công nhân lao động chủ yếu những người ngoài các tỉnh từ bắc miền Trung trở ra vào đây lập nghiệp.Tôi còn nhớ có chú Hạ ,cô Quyền người Nghệ An. Cô chú tham gia thanh niên xung phong trong chiến tranh rồi đất nước giải phóng hai người dắt nhau về quê,đất chật người đông không có việc làm nên cả hai lặn lội vào đây.Những ngày đầu vào nông trường cô chú ở nhờ nhà tôi, gia tài mang theo chỉ có vài bộ áo quần bộ đội và một cái điếu cày đầu bịt nhôm đã lên nước bóng nhoáng. Mờ sáng, chú thường ngồi ở hiên nhà với ấm chè xanh hái từ chiều hôm trước ngoài nông trường om qua đêm. Chú uống bát chè nóng, rít hơi thuốc Lào thay bữa ăn sáng rồi cả hai cùng đi làm.Từ ngày có chú Ha,ï cô Quyền nhà tôi cũng vui hẳn lên. Tuy là nồi riêng nhưng có những chiều ăn cơm chung thật đầm ấm.

Cha tôi cũng bắt đầu uống chè xanh từ khi đó.Chú Hạ lấy làm vui nói: Chè xanh thơm lắm ông cụ à, nó thường chống được bệnh cảm ho thông thường ấy. Cha lấy làm đắc chí và dần dần chuyển sang uống chè xanh hẳn. Mỗi lần đi làm bên nông trường về chú Hạ không quên mang về một nắm, chú còn chỉ cha cách om chè đúng kiểu như người ngoài Bắc . Phải chọn lá không quá non hoặc quá già,nếu lá non sẽ loãng nước,lá già quá sợ mất vị thơm,lá vừa sẽ keo nước, có vị thơm và vị chát uống rất ngon. Có hai cách om: hoặc dùng ấm đất cho nước lạnh vào đun thật sôi rồi vò lá chè vừa chuẩn bị xong cho vào ấm , bỏ vào một lát gừng tươi đậy nắp lại, dùng khăn vải bọc kín giữ nhiệt độ , hai tiếng sau có thể dùng ngon; hoặc dùng ấm thường đun nước sôi rồi vò chè bỏ vào và bớt lửa hong trên than nóng nhẹ,cách này có thể dùng ngay nhưng không lâu và ngon như cách trên. Tôi nhiều lần om chè cho cha và cũng biết uống bát chè xanh lần đầu ở quê nhà.Sau này lớn lên tôi phải đi học xa nhà.

Từ biệt gia đình, cô Quyền chú Hạ tôi vào tỉnh rồi dần dần đi xa hơn. Nơi tôi trọ học một thời gian dài là vùng đất cố đô kinh kì-thủ phủ một thời đế vương phong kiến tồn tại gần hai thế kỉ trên đất nước ta. Chính vì vậy mà cuộc sống và con người nơi đây có những nét gì đó rất lạ so với nơi khác;họ trang nghiêm ,lễ giáo, nặng tình người…Ở đây được làm quen với những người bạn miền ngoài, tôi biết và học được ở họ nhiều điều về cuộc sống, văn hóa mà vùng đất Phú của tôi không có. Trong muôn vàn cái riêng chung đó,có bát nước chè xanh. Cái hôm Bố thằng Hiếu, bạn học cùng lớp , ở cùng phòng vào thăm, ông mang theo đủ thứ quà quê. Sau một đêm dốc bầu tâm sự, sáng hôm sau tôi thấy ông lấy từ trong ba lô ra một nắm chè xanh cho vào cái ấm cũ của tụi tôi đã lên màu đen vì khói lồ xô, ông cặm cụi đun và lấy bì kẹo lạc ra nhâm nhi cùng bát nước chè nóng trước khi lên tàu về Nghệ An. Vừa ngồi với nhau ông vừa nói: Choa thấy ở đầu hẻm có O bán cơm Hến, sáng tụi mi ra đó ăn một bát lót dạ rồi đi học, ở đó có nước chè xanh… Từ đó tôi và thằng Hiếu còm sáng nào cũng ra ăn tô cơm hến 1000 đồng và uống chén chè xanh rồi mới đạp xe lên giảng đường, lâu ngày tụi tôi và O bán cơm Hến trở nên thân tình. Ngày ra trường, tôi và Hiếu chuyển đồ ra đầu con hẻm, O nhìn tụi tôi vẫy tay nghẹn ngào: Tụi mi đi mạnh khỏe, khi mô trở lại ghé thăm O hè...Lâu rồi tôi chưa trở lại nơi này!

Tôi được phân công làm việc dưới đồng bằng. Do thời buổi công nghiệp nên con người cũng phải tất bật như những cỗ máy để mưu sinh. Buổi sáng uống li caphê vỉa hè trong vội vã, bạn bè chưa kịp hỏi chuyện với nhau đã đến giờ. Cứ thế một ngày, một tuần trôi qua…Chiều cuối tuần lại phải tranh thủ chạy về quê thăm mẹ. Mỗi lần như thế tôi không quên hái nắm chè xanh mang về thành phố, bạn bè thấy vậy bảo mày giống ông cụ Bắc kì quá, tôi cười – sợ không giống đấy chứ.

Gần đây rải rác trên báo đài có nói về uống chè xanh sẽ phòng được bệnh ung thư. Thế là họ đổ xô nhau đi tìm chè xanh mà uống, nhưng ở vùng đồng bằng cát trắng dọc duyên hải miền Trung tìm đâu ra. Lên chợ không thấy bán, về quê thì không có. Nghe bạn bè mách bảo họ tìm đến tôi, mấy chị trong cơ quan luôn miệng thứ bảy này em có về quê(thật tình mấy năm rồi có người có biết quê tôi ở đâu). Oâng Sếp trong cơ quan lại bảo khi nào về mang xuống cho bố nguyên một cây cả gốc lẫn rễ. Chiều lòng tôi cũng hì hạch mang từ vùng đất đỏ xuống, chỉ mấy tuần sau là cây ra bờ rào nằm.Thì ra loại cây khó tính này cũng kén đất dữ hè.

Đến cuối những năn chín mươi , vì làm ăn thua lỗ nên nông trường đã giải thể để lại một vùng đồi hoang hóa hơn trăm hecta. Những gốc chè to bây giờ không còn thẳng luống như ngày xưa nữa, nó khiêm nhường nằm khép mình dưới một rừng keo tai tượng rì rào trong gió…Và cuối mỗi tuần nó lại âm thầm cung cấp lá, hạt cho tôi mang về dưới xuôi. Cảm ơn các bài báo, vì “nhà ngươi” mà mọi người quan tâm đến ta. Những khi om chè tôi lại nhớ cô Quyền chú Hạ , không biết bây giờ họ đang ở đâu.
ĐTT
(THEO NGƯỜI ĐƯƠNG THỜI)

THƠ ĐINH LĂNG


TÌM LẠI MÙA ĐÔNG


Em về tìm lại mùa đông
Lá bàng cháy đỏ, rơi cong phố chiều
Lặng im trước bức tường rêu
Lục trong ký ức những điều nhớ quên.

Ly cà phê giấu nỗi buồn
Nhấm từng giọt đắng, con đường xa xa
Hoàng hôn rơi giữa chiều tà
Phố vẫn nhỏ, chỉ riêng ta lớn rồi !

Lá bàng cháy đỏ vẫn rơi
Chiều cong góc phố, em ngồi...mùa đông!

Phú Yên online

Thứ Năm, 11 tháng 12, 2008

TẢN VĂN CỦA VÕ THỊ LỆ


Lời đề tặng thầy cô
Viết cho thầy T.
Đã hai năm trôi qua tôi không về thăm thầy trong ngày 20 -11.Trong lúc bạn bè bận rộn với những kế hoạch dành cho thầy cô thì tôi vẫn dửng dưng…Ngày đi học, tối về hoàn thành bài tập. Cuộc sống của tôi cứ thế lặp lại theo năm tháng.
Một đêm, dù cố ru mình vào giấc ngủ nhưng tôi không tài nào chợp mắt. Xung quanh tôi là khoảng không tối mịt. Tôi nhớ những năm học phổ thông, nhớ về những người đưa đò suốt mùa học…Tôi viết những dòng chữ như hồi tưởng lại kỉ niệm về người thầy, người cô đã hun đúc trong tôi tình yêu văn học và yêu chính bản thân mình.
Nhỏ bạn thường nhắc đến tên của thầy mỗi lần hai đứa nói về đêm thơ Nguyên Tiêu hay bình luận về một bài báo nào đó. Nhưng mãi cho đến lúc học bồi dưỡng môn văn tôi mới gặp thầy.
Thầy không gò bó bằng cách đọc cho học trò chép nguyên si một bài văn mẫu nào đó. Bài dạy của thầy bao giờ cũng tóm gọn trong một dàn ý mang tính chất gợi mở rồi bọn tôi tự viết thành bài hoàn chỉnh. Thi thoảng, thầy xen vào buổi học bằng một bài thơ vừa sáng tác hay một kỉ niệm của thầy trong những ngày học ở Huế. Thầy có khá nhiều tác phẩm đăng báo. Cho đến bây giờ, tôi vẫn cảm nhận được tình yêu và nỗi nhớ của thầy về Huế trong từng con chữ nhẹ nhàng, da diết…
Ngày đó, tôi cũng tập tành viết lách rồi nhờ thầy góp ý. Lúc đầu, tôi cảm thấy nản vì lúc nào cũng nhận từ thầy những lời phê bình nào là “bài viết không hay”, “bài này chỉ đạt loại trung bình khá”…Dần dần, tôi bắt đầu học tính kiên nhẫn bởi tôi tin rằng mọi sự cố gắng đều được đến đáp xứng đáng.
Nếu tôi biết ơn cô chủ nhiệm là người tập cho tôi cách sống tự lập và phải biết chịu trách nhiệm về những gì mình làm thì tôi cảm ơn thầy về bài học của niềm tin ở bản thân và sự kiên nhẫn. Ngày biết tôi định thi ngành báo chí, gia đình phản đối vì cho đó là ngành nguy hiểm. Tự nhiên tôi chùn bước và không muốn cố gắng nữa…Tình cờ hôm ấy, thầy kể cho tôi nghe về những khó khăn của cậu học trò nhà quê là thầy ra tận xứ Huế để học. Thầy kể về những người con đất Phú thành danh với nghề báo… Ngày hôm ấy tôi đã suy nghĩ thật nhiều về những lời nói của thầy. Tôi nhận ra từ trước tới giờ tôi luôn miệng bảo mình thích ngành báo nhưng chưa một lần tôi thật sự quyết tâm với ước mơ đó. Kì thi đại học sắp đến, tôi quyết định bỏ hẳn ý nghĩ “đậu cũng được, không đậu cũng chẳng sao” như kì thi học sinh giỏi.
Mọi cố gắng đều được đền đáp xứng đáng. Và tôi đã đậu đại học.
Mặc dù bận rộn, thầy vẫn đến chia vui với học trò trong bữa tiệc liên hoan trước hôm tôi vào Nam nhập học. Thầy tặng tôi 50.000 đồng cùng mảnh giấy động viên tôi hãy cố gắng thật nhiều cho chặng đường sắp tới. Lời chúc mừng thật ấm áp…
Học xa nhà, cảm giác cô đơn và thấy mình kiệt sức thường quây lấy tôi sau những giờ học. Tôi sợ những người tin tưởng mình sẽ thất vọng. Những lúc như vậy, tôi chạy một mạch ra bưu điện gọi về cho thầy và cô chủ nhiệm để được tiếp thêm niềm tin. Thi thoảng, đọc được bài thầy trên báo, tôi mừng quýnh và tự nhủ mình không ngừng phấn đấu như thầy.
Mỗi lần về nhà, bao giờ tôi cũng chạy lên năn nỉ nhỏ bạn chở đến nhà thầy và cô.
Lại một 20 - 11 tôi không về thăm nhà. Lại một 20 - 11 tôi gửi về thầy cô lòng biết ơn chân thành món quà là những quyển sách. Lại một 20 - 11 tôi nghe giọng trách móc quen thuộc của thầy và cô chủ nhiệm “Học xa tốn kém lắm, em mua quà làm gì?”. Lời trách yêu sao quá đỗi ngọt ngào…

VÕ THỊ LỆ
Lớp báo chí K07, ĐH KHXH & NV Tp HCM
.

Thứ Bảy, 8 tháng 11, 2008

HOÀNG PHỦ NGỌC TƯỜNG


Nhà văn Hoàng Phủ Ngọc Tường

văn chương đòi hỏi cái gì... hơn cả máu! Sức sống của Hoàng Phủ Ngọc Tường sau cơn bạo bệnh là một niềm vui cho làng văn học Việt . Trong những ngày tháng điều trị, những trang viết của ông không vì thế “đóng cửa” mà nhiều khi lại thăng hoa vì đây là khoảng thời gian đúc kết của một chuỗi dài “ham chơi”, một thời đã từng lên rừng xuống bể, vào Nam ra Bắc với biết bao “Miền gái đẹp”... Không bao giờ dừng bước - Đó cũng là cốt cách của nhà văn gốc Bích Khê, Quảng Trị này.

Ký là một loại... “khoai”!

+ Có người nói ký của Hoàng Phủ Ngọc Tường chỉ sau Nguyễn Tuân, ông tự hào về điều so sánh đó?- Không có gì làm mình khổ tâm bằng bắt mình tự so sánh với Nguyễn Tuân. Vì từ trước đến nay tôi vẫn coi ông là một bậc tiền bối. Nhưng chính như Nguyễn Tuân nói trong một buổi lễ trao giải của Hội Nhà văn Việt tại Hà Nội, đại ý: Họ nói vậy nhưng chúng ta hy vọng viết khác thôi, khác hoàn toàn không giống gì hết. Tôi cho rằng điều đó là đúng và tôi có cảm tưởng rằng không thể nào viết được những cái như “Vang bóng một thời”... Nhà văn Nguyễn Tuân có tài hoa về cái đó. Nếu đưa so sánh về tính đặc tính của văn học. Tôi cho rằng đó là một so sánh khập khiễng.

+ Bút ký là thể loại gần với báo chí. Vậy yếu tố nào để bút ký có được sức sống bền lâu trong lòng độc giả?

- Theo tôi, để ký sống mãi rất khó. Trước hết, phải có văn, yếu tố văn phong là yếu tố cần nhất của văn chương nói chung, ký nói riêng. Nếu ý tưởng hay mà thể hiện trong bài viết không rành mạch, rõ ràng thì không thể đi vào lòng độc giả được. Ngoài ra, nó còn đòi hỏi nhiều yếu tố khác nữa. Ký là thật, không hư cấu, hoặc phải có cách viết mà độc giả đọc không cho đó là hư cấu. Điều tiếp theo phải nói là tính lạ. Dân gian có nói “khoai đất lạ, mạ đất quen”, thì yếu tố “đất lạ” phù hợp với một loại “khoai” là ký.“Chơi” là một văn hoá

+ Là một “Người ham chơi”, yếu tố “ham chơi” giúp gì cho nhà văn?

- Tôi cho rằng “chơi” cũng là một đặc tính của con người. Người ta không phải chỉ có làm mà phải có cả chơi. Chơi cũng là văn hoá của con người

– “văn hoá chơi”. Ham chơi là hưởng thụ văn hoá, nghệ thuật, triết lý nhân sinh... Nghề viết thì rất cần điều đó.

+ Nghĩa là nhờ cái “ham chơi” mà ông có những trang văn đặc sắc?- Cái đó thuộc về độc giả đánh giá. Nhưng tôi thấy “ham chơi” cũng là một lối sống của nhà văn. Cái may nhất là tránh để không phải ham làm giàu. Nhà văn không nên thiết tha chuyện đó. Nhà phê bình văn học nổi tiếng Kim Thánh Thán của Trung Hoa đã viết: “Tất cả chỉ là chơi thôi, làm người say cũng là một cách chơi”.

+ Có phải vì coi cuộc đời chỉ là một cách chơi mà trong văn của ông mang nặng yếu tố “Phù du”?- Phù du chỉ cái mong manh, mỏng mảnh, không nắm bắt được, chóng qua... Vì vậy hoa thì gọi là hoa Phù Dung, con vật thì gọi Phù Du. Mọi cái có thể là Phù Du. Vì vậy yếu tố Phù Du hay ám ảnh tôi chứ không phải là chủ đề trong sáng tác.+ Huế là cái nôi của văn chương. Ông đã nhiều năm ở Huế, phải chăng vì thế trong văn ông thường nặng tình xứ Huế?- Đúng vậy. Thứ nhất là môi trường ảnh hưởng tư tưởng. Thứ hai, Huế có một kho văn học dân gian, kho văn hoá phi vật thể khá phong phú. Ngoài ra, Huế có rất nhiều cảnh quan thiên nhiên rất đặc trưng. Ví dụ như con sông Hương thì trên thế giới không thể có một con sông nào thơ mộng như thế! Rồi núi Ngự, cầu Trường Tiền...+ Trong tập thơ “Người hái phù dung” bài “Vẽ tôi” rất hay. Nếu bây giờ được “vẽ mình”, ông sẽ vẽ...?- Tôi sẽ vẽ như bài thơ đó. Tức là cốt cách thì giống hoa hồng, đẹp nhưng mong manh lắm, nó không có gì cả, chỉ có hạt sương thôi.Không phải viết về phụ nữ thì mặc váy. Nhưng... + Là người “có tuổi”, hơn nữa là một trong những “cây đại thụ” của nền văn hoá Việt Nam, từng theo dõi bước đường của giới trẻ, ông có nhận xét gì về họ?- Tôi cho rằng, thế hệ trẻ hôm nay không được như ta kỳ vọng. Văn chương ngày xưa viết kỹ lưỡng hơn. Ngày nay có nhiều cái làm người ta bị quyến rũ, nên có ý coi thường văn chương. Tuy nhiên, điểm mạnh là được tiếp thu một gia tài lớn từ kho tàng văn học thế giới, biết ngoại ngữ... nên phần nào qua cách viết, lớp trẻ thể hiện được “sức trẻ”, sự sáng tạo “bạo” hơn.+ Sự khuyên bảo thường làm cho người ta khó chịu nhưng nó lại rất cần thiết, nhất là trong việc cảnh báo. Ông muốn nói với những người cầm bút trẻ điều gì?- Để thành công, cần nhất là sự làm việc nhiệt thành. Phải đọc nhiều sách và chịu khó ngồi vào bàn viết. Luôn biết nuôi dưỡng vốn kiến thức của mình. Không thể mặc váy để viết về người phụ nữ nhưng phải biết, am hiểu những đặc điểm của phụ nữ thì mới viết được. Thế thì phải đọc sách, bởi trong sách thì có cả những điều đó. Phải làm việc cật lực, sáng tác thường xuyên. Không nên rong chơi nhiều quá. Phải biết “ham chơi” - nghĩa là nói đến hưởng thụ một nền văn hoá, chứ không phải chơi ngang, như một đứa trẻ. Đối với thế hệ trẻ, phải biết tiếp thu những gì đã sống cộng với những gì chưa sống để tiếp thu gia tài lớn hơn. Tất nhiên, không phải ai cũng biết cách tiếp thu.Trước khi là nhà văn phải là một Con Người+ Trong lời tựa của tập thơ “Người hái phù dung”, Nhà thơ Nguyễn Trọng Tạo có viết: “Những con chim yến không phải làm tổ bằng nước bọt mà làm bằng chính máu mình; người ta gọi là yến huyết, còn anh Văn Cao thì gọi là yến - thi - sĩ. Nó làm thơ để mà chết vì bài thơ nó làm ra”. Phải chăng, Hoàng Phủ Ngọc Tường cũng đã làm thơ bằng máu của mình?” Ông nghĩ thế nào?- Quả thật, văn chương đòi hỏi cái gì hơn cả máu. Kiến thức vươn đến chân trời khác lạ lắm. Cuộc sống ở đâu, văn chương đến đó. Gọi là văn học không biên giới. Có một thời người ta cho văn chương là phải có mấy chức năng. Tôi cho là không phải. Chức năng của nó là sống.+ Tính cách của tác giả quyết định gì trong cách viết, thưa ông?- Tôi cho rằng tính cách của tác giả thể hiện ngay trong từng trang văn. Phong cách và tư tưởng tạo nên nét riêng. Tính cách tuỳ người nhưng đối với nhà văn, tính trung thực cần thiết nhất. Trước khi là nhà văn, anh là một Con Người. Như vậy, một Con Người phải có nhân cách.Làm gì có chuyện “đấu khẩu” nhiều “Nhà” trong một nhà+ Trong gia đình mình có nhiều “Nhà” như vậy (vợ Hoàng Phủ Ngọc Tường là Nhà thơ Lâm Thị Mỹ Dạ, con gái - Nhà thơ Hoàng Dạ Thi) có giúp gì nhiều trong văn chương không thưa ông?- Tôi nghĩ nó có tương tác qua lại với nhau. Nhất là trong thơ. Ví dụ như nói về loài hoa hồng nói chung, cũng có rất nhiều màu, như: hồng phấn, hồng nhạt... Nó tạo cho loài hoa hồng trở nên sang trọng, xinh đẹp, phong phú.+ Thế có khi nào “đấu khẩu” nhau về vấn đề văn chương?- Sống trong cuộc sống bình thường chúng tôi ít nói chuyện về văn chương, thường nói đến chuyện “tương cà mắm muối”. Nhưng đôi lúc cả nhà cùng bàn luận một số vấn đề về văn chương để cùng tương trợ cho nhau thì hoà hợp chứ không có vấn đề gì xảy ra.+ Với nhà văn, “mỗi nhân vật là một đứa con tinh thần”, cũng là một người mình yêu, thương. Có bao giờ Nhà thơ Lâm Thị Mỹ Dạ “ghen” với nhân vật trong...sách không? Nhất là ở thể ký vốn có tính chân thật rất cao?- Về đời thực, với quá khứ, vợ tôi không bao giờ “phát biểu” vì hiểu rằng, quá khứ của mỗi người đều đáng được tôn trọng. Nghĩa là không giờ ghen với những người đã qua nhưng vô cùng ghen với những người đang có, nếu... Trong văn chương, vợ tôi không ghen bởi bà cũng là nhà văn nên hiểu rằng văn chương nó có thế giới riêng và nhân vật phần nhiều là hư cấu.+ Làm nhà thơ đã khó, làm chồng (hoặc vợ) nhà thơ còn khó hơn. Ông nghĩ gì về bà xã Lâm Thị Mỹ Dạ?- Một nhà văn rất mong một gia đình yên ổn, hạnh phúc. Nhất là đối với tôi. Yên một mặt đời mới lo được những mặt khác. Về gia đình thì Dạ rất chu đáo. Những lời khen đó xin dành cho Mỹ Dạ bởi bao năm nay, Dạ gánh vác công việc gia đình và chăm sóc tôi rất tường tận.+ Lúc bạo bệnh, sự sống - chết “đấu tranh” như thế nào trong ông?- Khi đó thì tôi không phân biệt được sống hay chết. Chỉ dửng dưng thôi. Cuộc sống sẽ chẳng có ý nghĩa gì khi mình không đứng bên bờ vực của sự chết. Thế mới quý sự sống đến nhường nào.+ Có một số thông tin cho rằng, ông bà có ý định bán căn nhà ở Huế vào TP.Hồ Chí Minh sinh sống, điều đó có đúng không?- Tôi như một cái cây già cắm rể ở đất này. Không thể bứng tôi đi nơi nào được. Đến một miền đất lạ tôi sẽ khó sáng tác. Từ trước đến nay tôi có nhiều dịp để đi khỏi Huế nhưng tôi không nghĩ đến điều đó.+ Xin cảm ơn ông!

HỮU QUYẾT - XUÂN HOÀI thực hiện

Thứ Tư, 5 tháng 11, 2008

THƠ NGUYỄN THỊ THANH DIỄM


Với thầy

Con vào năm cuối cấp ba
Chỉ vài tháng nữa con xa mái trường
Xa bao ghế đá con đường
Ngày mai xa cả khoảng vườn yêu thương

Trước thềm quá khứ vấn vươn
Nguời đi thổn thức nỗi buồn hư không
Lá vàng rơi nhẹ trước sân
Hình như cũng có mmột phần nhớ nhung
Ngôi sao sáng phía nghìn trùng
Ước mơ, người bước có cùng song đôi

Thời gian như nước êm trôi
Con quay lưng lại đã rồi ba năm
Con nhìn ánh mắt xa xăm
Dường như thầy cũng…âm thầm như con.


Lặng lẽ một dòng sông
Mỗi đời người có phải một dòng sông
Sao chảy mãi về miền vô tận
Mang phù sa để cây xanh trái ngọt
Để tình yêu trải rộng khắp quê nhà

Mỗi dòng sông đều chở một con đò
Luôn êm dịu như lời mẹ hát
Dòng sông mang trái tim dào dạt
Neo giữ mặt trời cập bến thành công

Tôi đã thấy những dáng hình như thế
Trên khắp nẻo đường, trên mọi dòng sông
Và không biết ai xa rồi có nhớ
Nụ hồng trong sáng mùa đông

Người đã chở bao chuyến đò cập bến
Người đã đi hết một cuộc hành trình
Dẫu lặng lẽ âm thầm nhưng sâu rộng
Với cuộc đời, thầy là cả dòng sông
Nguyễn Thị Thanh Diễm
Lớp 12C - Trường THPT Lê Thành Phương
Tuy An Phú Yên.


Chủ Nhật, 2 tháng 11, 2008

Thơ Cao Phú Cường


Áo bà ba
Tại sao lại gọi bà ba
Mà không bà… bốn hay là bà… hai?
Hết tiền thiếu gạo đi vay
Chưa nhìn thấy áo nửa ngày đã mong

Ai cho vay được nỗi lòng
Vắng em chỉ biết nhìn dòng sông trôi
Dịu dàng, đằm thắm tuyệt vời
Để chiều sông Hậu – lá rơi… thẫn thờ

Eo, hông chín ngẩn mười ngơ
Đường ly khéo chiếc… bài thơ không lời
Áo vào câu hát đầy vơi
Cho lúa thêm hạt cho trời thêm xanh

Áo làm xuồng mộng chòng chành
Em xinh thêm áo cho tình anh say
Không rời chỉ một phút giây
Áo thơ còn mãi với ngày với đêm

Ra bến - nhớ, lối về - quên
Rượu không uống… áo và em vẫn nồng

C.P.C
lucbat.com

_________

Thứ Bảy, 1 tháng 11, 2008

THƠ NGUYỄN THỊ THANH SANG



CHỢT
Tự nhiên đậm nhạt bất ngờ
Sắc màu muôn lối trải bờ mắt nâu
Khi thì lách tách mưa ngâ
Lúc nồng sực cái nhìn đầu xuyến xao
Khép hờ lại thấy chiêm bao
Mờ mờ ảo ảo ngôi sao khó gần
Với tay nắm lấy một phần
Chợt bâng quơ, chợt tần ngần hỏi trăng
Giữa khuya níu cái dùng dằng
Sợ người phản đối can ngăn giấc nồng
Chút tình gửi cõi thinh không
Sân si xin ném v ào d òng h ư v ô.

NGUYỄN THỊ THANH SANG
HS L ớp 12C Trường THPT Lê Th ành Ph ương Tuy An Phú Yên.

THƠ TRẦN TRÍ THÔNG


TÌM MÙA

Trần Trí Thông

Nghe câu lục bát ru chiều
Ca dao ai thả cánh diều hư không
Đi tìm đâu lá diêu bông
Người ta hứa để phải lòng chị thôi

Ngày mai câu hứa xa rồi
Góc vườn chị đứng lẻ loi đợi gì
Gió đùa mấy cánh đài bi
Lỡ làng tuổi chị quá thì diêu bông

Mấy lần chị đợi mà không
Mùa nghiêng xuống nhánh cải ngồng vườn đêm
Chỉ điều thêu lệch đường kim
Men theo câu ví chị tìm đò trưa

Đường lầy gánh bóng cơn mưa
Cờ lau trắng bãi tóc thưa bạc màu
Cầu vồng bảy sắc ba màu
Chị ngồi khâu áo hay khâu nỗi buồn

Tình tang câu hát cánh chuồn
Cây sầu đông đã bồn chồn trổ hoa
Người ta áo tím hoa cà
Chị tôi áo vá… ơi à lời ru.

T.T.T

Thứ Sáu, 31 tháng 10, 2008

VI THUỲ LINH TRONG MƯỜI KHUÔN MẶT THƠ TRẺ


Vi Thuỳ Linh
(NHÀ THƠ TRẺ)

Đối với Vi Thuỳ Linh, tình yêu và thơ là định mệnh. Nhà thơ tâm sự: "12 năm làm thơ, sống cho thơ, tôi ngày càng thấm thía thơ là định mệnh của tôi…Có 2 lĩnh vực trường tồn qua mọi thời đại, bởi sức mạnh thiêng liêng vượt qua mọi ranh giới, khác biệt, màu da, ngôn ngữ: đó là Tình yêu và Nghệ thuật. Sống cho thơ và vì thơ mà sống đẹp, tôi vẫn tiếp tục hành trình thơ, hành trình tình yêu của mình.” (Sống Thơ, 6.2007). Trước Vi Thuỳ Linh (VTL) đã có nhiều người làm thơ tình, VTL đã làm mới thơ tình như thế nào?
Thơ tình VTL là thơ tình cuả người đang yêu, đang đắm say hạnh phúc và hoan lạc. VTL miêu tả cuồng nhiệt hạnh phúc nhục thể hoà với hạnh phúc tinh thần trong nhiều bài thơ như Âu Cơ, Tình Tự Ca, Trên Ngực Anh,..
Hồi hộp đến cuối đường tơ lụa Tây Tạng mê ảo cuồng hoa Trứng nhộn nhịp thụ thai Âu Cơ rũ váy rũ nghiệt ngã Lại hứng hứng gió thốc Thôi miên những cánh cửa chồi răng Hoa Thùy Linh Đàn đàn mũi tên bay từ giữa hai đùi Bắn nát sự cam phận.
(Âu Cơ)

“suốt đêm suốt đêm /
Những khát khao được giải phóng “
(Bản Đồ Tình yêu..)
Trong đam mê và say đắm nghiệm sinh tình yêu nhục thể, VTL đặt thành những tín niệm.Tình yêu làm nên nhân loại “Trong lòng em, anh khai thị thế gian “(Âu Cơ). Tình yêu là ánh sáng, là ngày mới là sự sống
“Cả thế giới chật ních buồn phiền bỗng nhiên vắng lặng Để loài người học yêu nhau trở lại Để loài hoa không bao giờ mãn khai, hé mở “(Đường Ong)
Tình yêu cứu rỗi nhân loại
“…Thế giới loạn ly vì lũ khủng bố cuồng man ngu muội cực đoan quá khích
Nắm lấy tay nhau, những bàn tay không biên giới!..
… Những làn môi mọng đỏ đòi hôn như dâu tây đòi nước và ánh sáng
Nếu cả loài người đều yêu nghệ thuật và thơ hay, sẽ không còn cái ác” (Hãy phủ thơ khắp thế giới của em!)
VTL kêu gọi giải phóng phụ nữ
“Hãy vĩnh biệt cuộc sống tĩnh mịch đơn điệu Chịu đựng nô lệ giới tính bằng bị động Hãy yêu nhau, đừng chần chừ nữa Đừng giam đời trong hèn yếu, sợ đàm tiếu điều tiếng lên án từ những kẻ vô hồn bạc nhược Nào cùng đi Hãy vĩnh biệt cuộc sống tĩnh mịch đơn điệu Chịu đựng nô lệ giới tính bằng bị động Hãy yêu nhau, đừng chần chừ nữa Đừng giam đời trong hèn yếu, sợ đàm tiếu điều tiếng lên án từ những kẻ vô hồn bạc nhược Nào cùng đi”
(Bản Đồ Tình yêu)
Em giải phóng em trong thế giới tâm hồn
Hỡi những người phụ nữ, hãy yêu và sống đến cùng như mình muốn
Đừng mặc cảm giấu che! Nín đi! Bắt đầu cuộc sống không cần chịu đựng, chờ chiếu cố
(Yêu cùng George Sand)
VTL khai thác triệt để những phần thân thể và những hoạt động giao hoan tình dục, những cảm giác vật chất và tinh thần: Bàn Tay, Đôi mắt Anh, Trên Ngực Anh, môi hôn, làn da, ” lưng anh lưng em tự sóng” “anh hoà em vào máu “
Anh hạ trời xuống Anh nâng đất lên
Anh bùng vỡ thanh xuân cuồng điên
Trên lưng Anh, bơi mải miết ngón ngón em dài trắng
Môi em trườn đêm căng
Duỗi chân dài, em nối những ranh giới, những núi đồi, sông biển, nhịp nhịp qua cầu đùi muốt
Vào lúc Anh lên em lên Anh
Thụ tạo giấc mơ ấp ủ
Em đạt khát khao làm Mẹ
(Nơi Ánh Sáng)

Yêu là liều, bất chấp ngặt nghèo ngăn cấm
Chẳng có gì trói buộc, hoãn, sợ run

Lúc 12 giờ đêm đến gần Anh đang đợi
Phòng ngủ biển xanh mây bay thiên thanh
Chiếc giường đàn hương - máy bay bằng gỗ
Dâng mình lên theo cơ thể ngụt ngàn
Dâng từng đợt mưa say đợt cắn
Anh trai tráng hệt như chưa lần nào
Em nữ tính nhiều mà sao vẫn thiếu
Đoá nhung đen nở mịn đường cỏ ấm
Còn nợ mùa thu vì em trắng quá
Suốt đời mải miết chạy theo tình yêu
(Tình Tự Ca)
Tuy say đắm nhục thể nhưng VTL vẫn đủ tỉnh táo để suy tư về tình yêu trong những tương quan nhân loại, và nhìn đời tươi xanh
Anh dắt em đi mãi trong màu xanh thành phố, trên triền xanh của sóng, giữa không tận bầu trời
Chúng mình đã đi qua bao thế kỷ bất an, sao loài người yếu đuối đến thế?!
Chúng mình đã đi qua ánh sáng bao nền văn minh huy hoàng, mà nhân gian vẫn tìm gì mãi thế?! Điều quan trọng nhất, bí mật hệ trọng nhất là biết yêu nhau trong sự sống tận cùng
Đi bộ qua những vòm trời, anh nằm bên em giữa thời đại mệt nhoài rạn bóng những thế kỷ
Nhắm mắt để chuỗi ánh nhìn vẹn nguyên phát hàng triệu tia bích ngọc
Máu anh truyền em truyền đời xanh thẳm
(Xanh)
Ta đi tìm thời gian đã mất trong thời gian đang trôi
Ta ước về tháng ngày chưa đến trong thời gian đang trôi
Thong thả yêu nhau bằng khí lực thanh xuân, giữa chớp nhoáng ngày đêm - tình huống nghiệt ngã của tạo hoá
Tận hưởng xuân ngưng lại mùa huyền bí
Làm như quên tình tiết trai gái hôn cháy cả giao thừa...
Trên da thịt đôi ta, theo hơi thở Anh, mưa xuân đang ấm
Gió lên tình, vờ không phân biệt nổi mùi nàng với ngàn hoa
(Ngưng lại mùa xuân)
VTL cũng có những bài thơ tạo được những xúc cảm thẩm mỹ mạnh mẽ, khổng chỉ về niềm hoan lạc và về cả nổi buồn (Nhật Thực, Phiá Ngày Tắt Nắng)
Khi anh đẩy em bằng mắtTrăng vừa tròn mười chín!Em đã thả đi bao nỗi buồnBuộc bằng tóc rụng,Tóc đã rụng mùa mùa nhiều rồiMà chưa thấy nắng lên,Em oà vỡ,Những nỗi đau chèn nhau,Em lầm lũi đến trước cổng nhà anh!Nhặt xác nỗi buồn còn tươi nguyên,Đốt lên thành lửa ném lên trời,Đốt lên thành lửa ném lên trời (Phía Ngày Tắt Nắng)
Nếu so sánh với thơ tình Xuân Diệu, Xuân Quỳnh, Nguyên Sa, thơ tình Vi Thuỳ Linh đã mới hơn nhiều. Người đọc nhận thấy trong thơ VTL chất đắm say cuả Xuân Diệu, chất suy tư tỉnh táo và đằm thắm thuỷ chung cuả Xuân Quỳnh, những tinh tế ngôn ngữ cuả Nguyên Sa, nhưng ở VTL, đúng như nhà thơ tự nhận định, thơ VTL được viết bằng ngôn ngữ tinh ròng, phong phú, bằng giọng tâm sự chân thành gần gũi giàu nữ tính
“Trổ nhiều ô cửa bằng vòm chữ, ngôn ngữ là di sản văn hoá
Viết bằng tiếng Việt thật đẹp và cuốn hút, miệt mài quá mức”
(Yêu cùng George Sand)
Vì thế dù miêu tả tình dục, ngôn ngữ thơ VTL không trần tục thô thiển, mà vẫn giữ được sự chừng mực, vưà đủ bộc lộ tất cả những mê đắm, vừa đủ tỉnh táo giữ được cái đẹp cuả thơ ca trong cái đẹp cuộc sống tươi xanh, để tạo nên những giá trị mới cho thơ tình. Tuy nhiên, về nghệ thuật, thơ VTL không mới.
Tôi nghĩ rằng tình yêu, tình dục, niềm hoan lạc trong tình yêu không phải là tất cả. Cuộc sống có bao nhiêu vấn đề cần tiếng nói cuả thơ ca. Khi tuổi thanh xuân qua đi, khi những trách nhiệm xã hội chồng chất lên vai và khi tình yêu chỉ còn lại những giông bão sau những sắc màu cuả cầu vồng rực rỡ, thịt da chai lỳ nhục cảm, thay vào đó là những đớn đau thân xác (bệnh tật, sự tàn phai..), không biết VTL có còn viết được những dòng thơ sung mãn như những gì chị đã viết. Không phải trong thơ chị đã ánh lên những nét nhăn muộn phiền rồi đó sao. Dù sao VTL vẫn còn đang rất trẻ.
Tự nhủ không thể yêu ai nữaNgười đàn bà sống một mình, vừa muốn quên, vừa mong ngóngChị cố tránh con đường xưa…Lại đêm…Lại đêm… (Thiếu Phụ và Con Đường)
Quả không vui chút nào khi bài viết này chưa kịp công bố thì tôi nhận được tin: “tháng 11 này VTL sẽ ngừng làm thơ, it nhất là 5 năm tới cô sẽ không làm thơ nữa. Vì cô không muốn mãi làm thiếu nữ trong thi ca. Cô muốn làm người đàn bà từng trải.” (theo Thuỳ Vân- An Ninh thế giới- phongdiep.net 23.10.08)
Bùi Công Thuấn

Thotre.com

Thứ Ba, 28 tháng 10, 2008

luc bat hay


Từ giã Huế (Phạm Đông Vũ)
Giữa lưng chừng núi đi về,
Anh nhìn sóng biển bốn bề xôn xao.
Rì rầm nước tự trên cao,
Giữa hai sườn núi lao xao gió ngàn.
Nắng lan chiều hắt hiu vàng.
Xanh ngan ngát núi, xanh tràn biển khơi...

Anh từ giã Huế em ơi
Sông Hương lặng lẽ một thời riêng mang.
Hoàng thành biết mấy xương tan,
Hào sâu biết mấy phũ phàng đó em.
Khiêm Lăng sáo đã buông rèm,
Dấu xưa còn lại mấy thềm rêu xanh.
Đền đài. Ừ cũng mong manh,
Ngó sen vàng vọt bên gành đá xưa...
Huế mùa này lẫn mưa thưa,
Qua đèo đã thấy đong đưa nắng vàng.
Thôi em. Huế đã muộn màng,
Anh trao em sợi nắng vàng làm tin.
Lưng chừng đèo Ải lim dim,
Mới hay anh đã đi tìm Huế thơ...
1988-2008
P.Đ.V
lucbat.com

Chủ Nhật, 26 tháng 10, 2008

Thơ với lời bình


“Dòng sông một bờ” của Nguyễn Khắc Thạch

Có một dòng sông mang tên em
Dòng sông anh tự đặt
Xin mùa thu chiếc lá làm thuyền

Có một dòng sông trôi vào lãng quên
Nước trong như nước mắt
Điều chưa đến mà sao thấy mất

Có một dòng sông chỉ có một bờ
Phía bờ kia quay mặt
Dòng sông anh không qua được bao giờ.
NKT
Lời bình
Tôi biết đến nhà thơ Nguyễn Khắc Thạch trong những tháng năm sống ở Huế. Ngày đó không dám nói là người yêu thơ nhưng chúng tôi đọc thơ rất nhiều. Hầu hết những cây bút thơ ở Huế chúng tôi đều biết đến, trong đó có nhà thơ Nguyễn Khắc Thạch. Thơ anh không diễn đạt theo kiểu dàn trải giống như một số nhà thư khác. Trái lại, thơ anh ngắn gọn cô đọng mang chiều sâu triết lý nhân sinh. “Dòng sông một bơ”ø là một bài thơ như thế. “Dòng sông một bờ”ø cũng là tên một tập thơ riêng của anh. Bài thơ ngắn gọn 3 khổ 9 câu được viết theo lối tự do nên cảm xúc không gò bó mà câu thơ được diễn đạt đi đến tận chiều sâu tâm hồn. Bài thơ cũng nhắc nhở, mách bảo một điều gì đó hình như qua rồi và không trở lại để cả ý thơ là một sự nối tiếc xót xa. Cũng là anh em đấy nhưng cách thể hiện của Nguyễn Khắc Thạch có những nét rất riêng. Đại từ em ở ngôi thứ hai như vừa thực vừa hư. Mượn hình ảnh quen thuộc là “dòng sông” và danh từ “em” tác giả bày tỏ cảm xúc trữ tình. “Có một dòng sông mang tên em”. Mới đọc câu thơ đầu ta cứ tưởng đây là một sự thực. Có thể đây là dòng sông nào đấy quen thuộc nơi anh: sông Lam, sông Gianh hay sông Hương? Bởi anh sinh ra ở xứ Nghệ, lấy vợ ở Quảng Bình và bây giờ định cư tại Huế. Nhưng không, đến câu thứ hai sự thật lại không ngờ. Đây không phải là dòng sông có thật mà là “dòng sông anh tự đặt” thế rồi ta như bắt gặp câu chuyện riêng tư cứ bồng bềnh trôi trên dòng sông không xác định đó. “Xin mùa thu chiếc lá làm thuyền.” Chiếc lá hư hay thực, ở đây chiếc lá là câu chuyện. Dù hư hay thực thì so với dòng sông chiếc lá kia quá nhỏ bé trước không gian, thời gian rộng lớn mênh mông… Cách dùng từ rất hay, “xin” chứ không phải mượn. Từ “xin” cùng với cách dừng câu thơ thứ ba đột ngột và sang khổ với cảm giác hụt hẫng trống không để lại nhiều ấn tượng về hai mặt của hai chiều nội dung và hình thức thơ. Sang khổ thơ thứ hai, nhà thơ lại tiếp tục nói về dòng sông. Ơû đây không còn là dòng sông phiếm chỉ như dòng sông trong khổ thơ thứ nhất mà là dòng sông khẳng định. “Dòng sông trôi vào lãng quên”. Câu chuyện đã được chuyển sang một thời điểm khác, thời điểm quay về với nối tiếc xót xa cho nên dòng sông ấy chỉ còn trong hoài niệm. “Nước trong như nước mắt”, có nước gì trong hơn nước mắt bao giờ nhưng có lẽ nước mắt cho riêng mình lại càng trong và mặn mà hơn. Dòng sông hoài niệm thì làm gì có nước, chỉ có nước mắt mà thôi. Một cách so sánh ngầm hoàn toàn mới lạ rất phù hợp với nội dung bài thơ. Đến đây, người viết trực tiếp giãi bày tâm sự của mình một cách rõ ràng. “Điều chưa đến mà sao thấy mất” – câu thơ hay đến không ngờ. Điều đến rồi mất đã đành nhưng điều chưa đến lại mất, mất trước cái thời điểm hiện tại lại càng hay hơn. Xuân Diệu cũng đã từng nói: Trong gặp gỡ đã có mầm ly biệt. Cũng ý thơ đó nhưng Nguyễn Khắc Thạch không nói thế. Oâng khẳng định điều mất là điều chưa đến, thế mới hay. Khổ thơ thứ ba: “Có một dòng sông chỉ có một bờ/ Phía bờ kia quay mặt/ Dòng sông anh không qua được bao giờ”. Khác với hai khổ thơ trên “dòng sông mang tên em” và “dòng sông trôi vào lãng quên” người nghe như hợp lý. Còn dòng sông ở khổ thơ thứ ba thì “dòng sông chỉ có một bờ” øngười nghe thấy không có nghĩa, nhưng đem đối chiếu theo mạch logíc bài thơ thì ta thấy hoàn toàn hợp lý. Bới xét ở nghĩa thứ hai thì dòng sông đó cũng là tâm sự riêng của nhà thơ. Nếu như nhà thơ khẳng định dòng sông một bờ thì sang câu hai lại tiếp tục giải bày: “Phía bờ kia quay mặt”. Dòng sông có quay mặt được không hay chỉ là điều trắc ẩn. Tác giả dùng biện pháp nghệ thuật nhân hoá để biến dòng sông “danh từ” sang dòng sông “động từ”ø. “Quay mặt” vì sao? Quay mặt là giận hờn, không đồng ý, là từ chối…để một mình đứng lại với thời gian ngóng trông, cho nên cuối cùng nhà thơ khẳng định “Dòng sông anh không qua được bao giờ”. Dòng sông đã trở thành tâm điểm chính đi suốt chiều dài bài thơ. Nó là đối tượng để tác giả bày tỏ và gửi gắm cảm xúc của chính mình. Dòng sông ở đây vừa mang ý nghĩa tả thực vừa mang ý nghĩa tượng trưng. Cái thực là cái ta biết đến để sống và sẻ chia. Cái tượng trưng là cái trong tâm tưởng theo ta suốt cuộc đời, lúc nào đó ta chạnh lòng nhớ lại và cảm thấy nhói đau.Dòng sông là dòng chảy, trôi đi phù sa đất đai và kỷ niệm của con người. Nhưng dòng sông trong bài thơ là dòng sông một bờ. Dòng sông không qua được bờ bên kia là một dòng sông khác. Theo tôi đây cũng là dòng sông tâm tưởng, dòng sông thời gian. Bởi thời gian trôi đi mãi mãi chẳng trở lại bao giờ. Một bờ là hiện tại còn phía bờ kia là quá khứ nên con người không thể quay lại kỷ niệm xưa. Kỷ niệm sẽ đẹp và nhớ mãi trong mỗi con người. Đây cũng là triết lý nhân sinh của bài thơ. ĐÀO TẤN TRỰC
(theo Thế giới phụ nữ)

Thứ Sáu, 24 tháng 10, 2008



Viết cho con vào lớp 1
Buổi sáng con dậy sớm. Trong bộ đồng phục áo trắng váy xanh, trông con rất xinh. Mới đó mà đã bảy năm, kể từ khi con được cô y tá bế ra khỏi phòng sinh. Tiếng khóc của con đã làm cả căn phòng bừng sáng!
Có con, nhà mình rất vui, song cũng rất bận rộn. Có lần con sốt, đã đưa đến bác sĩ khám, cho uống thuốc nhưng vẫn không thuyên giảm. Nửa đêm, trời lạnh buốt mà người con nóng như hòn than. Cả nhà hoảng hốt đưa con xuống bệnh viện… Có lần, con ngã từ trên giường xuống, đau lắm nên khóc rất lâu. Con đau, người lớn càng thấy đau, thế là trách móc nhau sao lại bất cẩn như thế…

Con biết lật, biết bò, chập chững bước đi rồi bập bẹ nói… Tất thảy đều là những sự kiện trọng đại của nhà mình. Rồi con đi học mẫu giáo. Hai hôm đầu trông con rất hào hứng. Nhưng đến buổi sáng thứ ba, con òa khóc khi nghe hai tiếng “đi học”. Con cảm thấy bị bỏ rơi ở một nơi có nhiều đồ chơi, có nhiều bạn nhỏ mà con chưa kịp quen. Chiều hôm đó và cả hôm sau, từ lớp mẫu giáo bé, con được đón về nhà với đôi mắt mọng nước.

Sau này thì không như thế nữa. Sáng nào con cũng hăm hở đến trường - nơi đã mở ra trước mắt con một thế giới vô cùng mới lạ và kỳ thú. Mình vẫn thường hỏi: “Con đi học có vui không?”, và nhận được câu trả lời “Con rất vui!”. Con nói và mỉm cười, như một bông hoa trong nắng sớm.

Bạn bè mình thường bảo bọn trẻ bây giờ sướng gấp trăm lần tụi mình trước kia. Vậy mà đôi khi, mình lại nghi ngờ về điều đó. Con sinh ra và lớn lên ở thành phố, chưa bao giờ nhìn thấy chén cơm độn sắn khoai, chưa bao giờ phải cuốc bộ đến trường trên con đường đất gập ghềnh. Và vì thế, con chưa bao giờ cảm nhận được mùi thơm ngai ngái, nồng nồng của rơm rạ sau mùa gặt, mùi của cây cỏ ven đường trong những buổi sáng ngậm sương. Ngôi trường mẫu giáo mà con học là ngôi trường đã được người lớn cân nhắc lựa chọn, chứ không phải lớp học tềnh toàng nằm cạnh cánh đồng với những bức vách loang lổ, cửa sổ trống trơn, nên con không thể hình dung những trận gió nam ở quê mình mạnh mẽ đến dường nào. Con có nhiều đĩa nhạc Xuân Mai, phim siêu nhân cùng nhiều đồ chơi, nhưng lại không biết rằng con chìa vôi hót như thế nào trong buổi sáng, con bìm bịp khắc khoải vào mỗi buổi chiều và con gõ kiến điểm nhịp lốc cốc trong đêm. Con không biết đêm trăng ở thôn quê đẹp như thế nào, còn trong những đêm tối trời, bầy đom đóm đã mắc những bóng điện li ti lên hàng rào ngôi nhà cũ của mình trông rất ngộ… Mai này lớn lên, ký ức tuổi thơ trong con chỉ có những lần đi đạp vịt, đi tàu điện, xe điện ở một khu vui chơi dành cho thiếu nhi, thỉnh thoảng xuống quảng trường chơi với chiếc xe xích lô tí hon hay thả lên trời một cánh diều sặc rỡ… E rằng con sẽ không có nhiều điều để kể cho bạn bè.

Tuổi thơ của con bận rộn hơn, nhiều áp lực hơn mình ngày trước. Vừa rời trường mẫu giáo, chưa kịp tận hưởng mùa hè thì con đã phải đi học kèm. Ai cũng muốn để cho con cái mình được nghỉ ngơi, vui chơi, nhưng nhìn thấy những đứa trẻ cùng trang lứa “bị” cha mẹ hối hả kéo đi học, thì con mình cũng phải đi học, nếu không e rằng sẽ chẳng theo kịp bạn bè. Tối đến con còn phải tập đàn. Cây đàn thì to, bàn tay con thì nhỏ xíu. Thỉnh thoảng con lại quên, và bị rầy la. Con ngước đôi mắt trong veo “Sao mà khó quá!” và nhận được cái nhìn nghiêm khắc: “Khó nên phải học!” Rất có thể tuổi thơ sẽ vụt trôi qua trong những bận rộn và những áp lực mà người lớn vô tình đặt lên đôi vai bé nhỏ của con…

Con dậy sớm, mặc bộ đồng phục áo trắng váy xanh và hào hứng đến trường. Con yêu ạ, rất nhiều điều mới lạ đang chờ. Con sẽ cố gắng mỗi ngày, và sẽ tìm thấy niềm vui mỗi ngày ở lớp. Những bài học sẽ giúp con ngày một lớn lên. Và con biết không, có những bài học mà chúng ta không chỉ học ở trường. Chúng ta phải học từ những người chung quanh, từ cả những sai lầm, vấp váp trong cuộc sống. Đó là bài học về sự cảm thông, về tình yêu thương và về nghị lực.
Mỉm cười nào, con yêu. Con vào lớp một rồi!

NGỌC Lan

BPY

Thứ Năm, 23 tháng 10, 2008

CÁNH CÒ TRONG TÂM CẢM



Cánh cò trong tâm cảm

Con cò mà đi ăn đêm
Đậu phải cành mềm lộn cổ xuống ao
Ông ơi, ông vớt tôi nao
Tôi có lòng nào ông hãy xáo măng
Có xáo thì xáo nước trong
Đừng xáo nước đục đau long cò con.
(Ca dao Việt Nam)

Trong kho tàng ca dao Việt Nam, ngoài bài “Thằng Bờm”, bài “Con cò mà đi ăn đêm” là một bài ca lạ và hiếm. Bài ca dao đến với người nghe, người đọc qua nhiều thế hệ với cách nói ẩn dụ như là một phương thức biểu hiện độc đáo của ca dao Việt Nam.

Người nghe, người đọc tùy trình độ thưởng ngoạn mà cảm nhận bài ca dao theo cách riêng của mình. Nhưng có một thực tế mà tôi tin ai cũng thấy: Bài ca phản ánh hình tượng con cò lâm nạn, đến phút cuối của đời mình vẫn khẩn cầu được CHẾT THANH CAO, CHẾT TRONG SẠCH.

Bài ca vẻn vẹn có sáu dòng, hai dòng đầu mở đầu bi kịch:

'Con cò mà đi ăn đêm
Đậu phải cành mềm lộn cổ xuống ao'

Chưa tìm thấy miếng ăn, con cò đã gặp nạn “lộn cổ xuống ao”, sau khi đã vô ý “đậu phải cành mềm”. Con cò rơi rụng như quả chín trên cây. (Bạn đọc cũng đừng thắc mắc tại sao cò không mở rộng đôi cánh để thoát nạn).

Bằng phản ứng sinh tồn, con cò đã kêu cứu:

“Ông ơi, ông vớt tôi nao”

Đó là tín hiệu S.O.S. của con tàu đang quay cuồng trong cơn bão tố. Nhưng ta sẽ ngạc nhiên vì:

“Tôi có lòng nào ông hãy xáo măng”

Hóa ra con cò chỉ kêu cứu con người giải thoát mình ra khỏi ao bùn, vì con cò ghê sợ ao bùn, không muốn chết trong ao bùn. Ta sẽ còn ngạc nhiên hơn khi con cò sẵn sàng chấp nhận cái chết như một số phận đã an bài. Con cò cam phận chịu chết, vui lòng làm món “xáo măng” cho con người. Hai chi tiết “ông vớt tôi nao” và “ông hãy xáo măng” tương phản một cách bất ngờ, thú vị. Hai chi tiết tương phản đó đã làm nổi rõ một ước nguyện: Khi cái chết không thể tránh khỏi, con cò xin được chết theo cách của nó:

“Có xáo thì xáo nước trong
Đừng xáo nước đục đau long cò con”

Cho đến khoảnh khắc cuối cùng của cuộc đời, con cò vẫn thiết tha thỉnht cầu được CHẾT TRONG NƯỚC TRONG, KHÔNG CHẾT NƯỚC ĐỤC.

Cái hay, cái độc đáo của bài ca không những chỉ được biểu hiện trong câu chữ mà còn được biểu hiện trong cấu trúc tương phản và cái ẩn ý của người xưa. Và cái ẩn ý đó khi đsược phát hiện hợp lý đã đem đến cho người đọc khoái cảm nghệ thuật.CON CÒ LÀ HIỆN THÂN CỦA BẢN SẮC DÂN TỘC NÓI CHUNG, CỦA NGƯỜI PHỤ NỮ, NGƯỜI MẸ NÓI RIÊNG.

Trong ca dao, ta không chỉ thấy con cò mà còn thấy hình ảnh người vợ, người mẹ đảm đang, tần tảo:

“Con cò lặn lội bờ sông
Gánh gạo nuôi chồng tiếng khóc nỉ non”

Trong thơ cũng thế:

“Lặn lội thân cò khi quãng vắng
Eo sèo mặt nước buổi đò đông”
(Thương vợ - Trần Tế Xương)

Bài ca dao giản dị, mộc mạc mà giàu sức gợi. Bởi vậy nó đòi hỏi người đọc phải vượt qua chữ và nghĩa để bay bổng trong liên tưởng: Liên tưởng xa về con người Việt Nam; liên tưởng gần về người vợ, người mẹ sau lũy tre xanh của một thời đã xa. Riêng tôi, tôi xin giữ lại hình ảnh con cò-người mẹ chỉ vì chúng ta ai cũng yêu quý mẹ, tự hào về mẹ.

Trong cái vỏ bọc đơn sơ, bài ca dao ẩn chứa một triết lý sống cao đẹp của con người Việt Nam muôn thuở. Đó là vẻ đẹp kín đáo mà bài ca dao không ngừng dâng tặng cho mỗi một chúng ta
ĐOÀN THƯƠNG HẢI
(Theo báo Mực Tím)

Thứ Tư, 22 tháng 10, 2008

NGÔ VĂN PHÚ

MÀU SẮC CA DAO TRONG BÀI THƠ MÂY VÀ BÔNG CỦA NGÔ VĂN PHÚ
Trên trời mây trắng như bông
Ở dưới cánh đồng bông trắng như mây
Mấy cô má đỏ hây hây
Đội bông như thể đội mây về làng.
Ngô Văn Phú
Có một bài thơ rất mộc mạc, giản dị đã đi vào lòng bao thế hệ học trò và cả những người dân quê chân chất như một bài ca dao. Đó là bài thơ “Mây và Bông” của nhà thơ Ngô Văn Phú.

Mà ca dao thật, ca dao từ giọng điệu, màu sắc, ngôn từ, chất liệu, lối so sánh giản dị, mộc mạc hồn nhiên đến việc ca ngợi vẻ đẹp chân chất của con người lao động với những giá trị lao động sáng tạo.

Không giống như nhiều bài thơ khác của ông, “Mây và Bông” ngay khi vừa ra đời đã trở thành một bài ca dao, khi được làm theo thể lục bát truyền thống. Bài thơ được lưu truyền trong đời sống nhân dân, mà nhiều người không biết đến tác giả:

“Trên trời mây trắng như bông
Ở dưới cánh đồng, bông trắng như mây”

Chất liệu tạo nên những câu thơ thật mộc mạc, gần gũi và giản dị, chỉ là thiên nhiên xung quanh mỗi người, những thứ mà ai cũng nhìn thấy hàng ngày. Đó là mây và bông, những thứ không bao giờ thiếu trong những quan sát thường nhật của người nông dân khi mà họ luôn phải “trông trời, trông đất, trông mây” và trông mong cho thành quả lao động của họ là cánh đồng bông được mùa, nhanh chóng thu hoạch để mang lại cho họ một cuộc sống no ấm, bình yên.

Cái làm nên ca dao, làm nên hồn cốt của ca dao cũng thường mộc mạc, dung dị và hết sức đời thường như thế. Đó là những chất liệu dân gian được chưng cất, được ủ men từ trong cuộc sống hăng say lao động, từ trong tình yêu lao động của những người dân quê chân chất một nắng hai sương. Chất liệu ấy đã trở nên trong sáng hơn, lung linh hơn, đằm thắm hơn khi mang những sắc màu tươi mới với sự kết hợp hài hoà của những gam màu cuộc sống nơi thôn dã. Người đọc nó nhiều khi quên vấn đề kỹ thuật, vần điệu đã làm nên một bài lục bát:

“Mấy cô má đỏ hây hây
Đội bông như thể đội mây về làng”

Hình ảnh những áng mây trắng xốp như bông, trải rộng dài trên bầu trời đầy nắng và cánh đồng bông trải rộng mênh mông, mang màu trắng tinh khiết của mây trong những ngày thu hoạch được chấm phá bởi những bóng thôn nữ đang độ xuân thì má “hây hây” đỏ, đang đội bông trên đầu vừa chân thật, vừa lãng mạn, vừa lung linh như những thiên thần.

Ngôn ngữ trong “Mây và Bông” vì thế cũng không cầu kỳ, chau chuốt, không ẩn ý cao xa, không bóng bẩy nhiều nghĩa mà khá tuềnh toàng, nôm na, dễ hiểu:

“Mấy cô má đỏ hây hây
Đội bông như thể đội mây về làng”

Đơn giản như một lời kể chuyện thủ thỉ, một lời thông báo về một mùa thu hoạch bông được mùa. Cả một cánh đồng bông phơi một màu trắng mênh mông, ngút ngát tận chân trời chính là thành quả lao động đạt được của người nông dân sau những tháng ngày vất vả. Điều đó làm cho mọi người vui hơn, nên các cô thôn nữ cười tươi hơn, má hây hây đỏ dưới ánh nắng trời nhàn nhạt và phủ trắng những đám mây trắng xốp bồng bềnh. Cách nói thật thà, đơn giản và nôm na như thế là cách nói của ca dao. “Trên trời”, “Ở dưới cánh đồng”, “Mấy cô”, “như thể”, “Mây trắng như bông”, “Bông trắng như mây”, … là cách nói, cách so sánh theo kiểu ước lệ, hồn nhiên trong ca dao, mang theo những lời nói chân thành, mộc mạc trong ngôn ngữ giao tiếp hàng ngày của người lao động nơi làng quê. Cách nói ví von, so sánh đến thật thà, đến đơn giản, thậm chí còn như luẩn quẩn thì chỉ trong ca dao, trong lời ăn tiếng nói của những người nông dân xưa kia mới có.

Bài thơ đã mượn hình ảnh và lối nói, ngôn ngữ của ca dao để làm phép so sánh giống ca dao khi ca ngợi vẻ đẹp của thành qủa lao động bằng lối so sánh, liên tưởng rất trong sáng. Ca dao luôn là sự ca ngợi sự cần cù lao động, ca ngợi những con người thật thà, chất phác, ca ngợi những thành quả của lao động sáng tạo bằng những hình ảnh đầy ước lệ như thế. Cho nên, bài thơ mang đậm chất ca dao khi nó mang trong mình cả hồn cốt, chất liệu, ngôn ngữ, màu sắc, hình ảnh, sự so sánh, liên tưởng của ca dao.

Hình ảnh mấy cô thôn nữ đội bông về làng thật đẹp và lãng mạn, một vẻ đẹp của sự tin tưởng, của sự thanh tao, lung linh toát lên từ cuộc sống lao động thường ngày. Những cô thôn nữ, người lao động chính trên cánh đồng bông mang cả vẻ xuân thì của mình lẫn vào trong màu trắng bạt ngàn của thiên nhiên là hình ảnh người lao động đang vui vẻ hạnh phúc trong niềm vui được mùa.

Với ca dao, “Mây và Bông” đã hoà vào làm một, còn với “Mây và Bông”, nhà thơ Ngô Văn Phú đã thổi được vào đó cái hồn của ca dao, màu sắc của ca dao, giọng điệu của ca dao nên người đọc đã chấp nhận bài thơ như một bài ca dao thực sự. Càng đọc “Mây và Bông”, càng thấy yêu hơn cái tinh tế, cái hay của ca dao, càng thấy rõ màu sắc ca dao đậm nét trong một bài thơ mộc mạc.
Hoàng Trọng Muôn
THEO LUCBAT.COM

Thứ Ba, 21 tháng 10, 2008

THƠ MAI VĂN HOAN

GIẾNG LÀNG

Về quê, tìm lại giếng làng
Lối quen mà cứ ngỡ ngàng bước chân

Bao phen trời đất xoay vần
Làng xưa, xóm cũ mấy lần đổi thay.
Nép sau vườn dưới vòm cây
Lòng băn khoăn : có phải đây giếng làng ?

Hỡi người duyên số dở dang
Nhớ chăng đêm ấy… trăng vàng chung soi
Lõ tay thương chiếc gàu rơi
Làm xao lòng giếng… một thời vụng yêu

Giếng làng thuở ấy trong veo
Chia khắp thiên hạ: giàu, nghèo, hèn, sang…
Gái làng tắm nước giếng làng
Tóc càng óng mượt, da càng mịn thơm!

Bây giờ nước có đầy hơn
Chạnh buồng tên giếng không còn từ lâu
Bâng khuâng cầm lại dây gàu
Buông tay nhè nhẹ… sợ đau giếng làng.
Mai Văn Hoan

Thứ Hai, 20 tháng 10, 2008

NHÀ THƠ THẢO PHƯƠNG ĐI VỀ CÕI VÔ BIÊN



“Chiều Thu - Cây cầu đã gẫy”


Ngày 28-10 này, nhà thơ Thảo Phương sẽ sinh nhật lần thứ 60, nhưng chị không thể chờ đến ngày ấy. Chị lặng lẽ ra đi lúc 17h40 chiều 19-10-2008, tại nhà riêng ở Sài Gòn, trong niềm khắc khoải như chính hai câu thơ chị viết “làm sao về được mùa đông? Chiều thu – cây cầu đã gãy” được phổ nhạc thành bài hát nổi tiếng..

Cách đây nửa năm, nhà thơ Thảo Phương phát hiện mình bị bệnh nan y, chị phải nằm viện điều trị một thời gian nhưng tình trạng sức khỏe ngày càng xấu đi. Theo yêu cầu của chị, bác sĩ đã đồng ý cho chị trở về điều dưỡng với gia đình… Nhà thơ Thảo Phương tên thật là Nguyễn Mai Hương, sinh năm 1949 tại Ninh Bình. Chị từng tốt nghiệp cử nhân sinh học tại Hunggary, sau đó dạy học 8 năm tại Trường Cao đẳng sư phạm Đà Lạt, rồi chuyển về làm cán bộ thư viện Trường Quản lý Kinh tế Trung ương, rồi sang làm báo Kiến Trúc & Đời Sống.
Năm 1990, tập “Thơ Thảo Phương” xuất hiện đánh dấu một giọng thơ nữ đặc biệt. Tiếp theo các tập “Bài ca buồn”, “Người đàn bà do đàn ông sinh ra” và “Khúc ca thời gian” khẳng định tài năng và thao thức một nữ sĩ cá tính! Những năm cuối đời, nhà thơ Thảo Phương viết kịch bản phim truyện, mà đáng chú ý nhất là tác phẩm “Chim phí bay về nguồn” do Hãng phim Giải Phóng sản xuất!
Nhà thơ Thảo Phương quan niệm: “.Tôi nghĩ: Thơ là cái gì đó, “muốn” cũng không được, mà 'không muốn' cũng không được. Tôi không biết chắc mình có còn bài thơ tiếp hay không? Và điều đó có quan trọng không? Nhưng khi ta còn lành mạnh, còn nặng nợ với cuộc đời và con người…điều quan trọng là hãy trung thực và hết mình. Thà là chạm vào barie của chính mình rồi giã biệt”.
Vâng, hôm nay những người yêu thơ chị và những đồng nghiệp từng đi cùng chị một chặng đường nào đó ngắn ngủi qua cuộc đời này. Lụcbát.com xin gửi lời chia buồn sâu sắc tới gia đình nhà thơ Thảo Phương và xin giã biệt bằng cách đọc lại một bài thơ tiêu biểu của chị:


KHÔNG ĐỀ GỬI MÙA ĐÔNG

Dường như ai đi ngang cửa,
Hay là ngọn gió mải chơi?
Chút nắng vàng thu se nhẹ,
Chiều nay, Cũng bỏ ta rồi.
Làm sao về được mùa đông?
Chiều thu - cây cầu..
Đã gãy.
Lá vàng chìm bến thời gian,
Đàn cá - im lìm - không quẫy.
Ừ, thôi...
Mình ra khép cửa,
Vờ như mùa đông đang về!

Theo lethieunhon.com

Thơ Đặng Vương Hưng


Bao giờ mới nói


Cứ làm như thể vô tình
Nào ai đã bắt chúng mình lặng im!

Dối lòng thẹn với trái tim
Để rồi thương nhớ phải tìm đến nhau

Bao giờ mới nói một câu?
Tháng ngày khao khát, bấy lâu để dành

Nhưng mà... định nói với anh
Thì em cứ giấu... mong manh chưa hề...

Nhưng mà... định nói em nghe
Thì anh ngần ngại... còn e... bởi vì...

Bên nhau trò chuyện những gì
(Những gì mây gió, những gì xa xôi)

Ngày mai lại chia tay rồi
Vẫn chưa nói được đôi lời ấy ra...

Khi nào hai đứa cách xa
Thì mình lại nhận rằng là... mình yêu!
Đ.V.H
Lucbat.com

_____________

THƠ NGUYỄN THỊ THANH SANG


Lặng thầm
Gần hai muơi năm trước con chào đời bên mẹ
Tính tình tang mẹ nửa khóc và cười
Con được nằm trong vòng tay dịu nhẹ
Mặt trời hồng một dòng sữa tươi

Một , hai, ba…Giờ con là thiếu nữ
Bốn, năm, sáu…Ra tóc mẹ điểm rồi
Con đã lớn trong nìêm vui thực
Mẹ âm thầm từng phút chắt chiu

Bữa cơm nhỏ, nồi cá kho canh nhạt
Hai bát cơm, hai đôi đũa một mâm
Phần của mẹ khuyết đi hơn một nửa
Phần của con có bóng mẹ vun đầy

Con đã lớn, con đã thành thiếu nữ
Trái tim non chưa thể hiểu bao điều
Chỉ có mẹ là niềm vui duy nhất
Mặt trời hồng trên nền biển bao la.

Nguyễn Thị Thanh Sang
Lớp 12C Trường THPT Lê Thành Phương
Tuy An – Phú Yên

Thơ TRẦN THỊ MỸ NINH


Mẹ tôi
Một đời vất vả lo toan
Mẹ mong con được cơm ngon, áo lành
Cầu cho con được thành danh
Ước mơ của mẹ có thành …trong tôi

Bao nhiêu nước mắt, mồ hôi
Mẹ đem nhuộm nắng cho môi tôi hồng
Mẹ là con của nhà nông
Con làm cây lúa dòng sông nặng đầy

Bao nhiêu tuổi bấy nhiêu ngày
Bóng trăng qua cửa đã gầy guộc thêm
Và hàng cây đã lớn lên
Lá xanh như thuở màu trên vườn nhà

Con xin làm giọt phù sa
Chảy về phía mẹ, phía cha ngược dòng
Con đò mắc nợ dòng sông
Còn tôi mắc nợ trời hồng bao la…

Trần Thị Mỹ Ninh
Lớp 12C Trường THPT Lê Thành Phương Tuy An Phú Yên

Thứ Bảy, 18 tháng 10, 2008

THƠ NGUYÊN NGUYÊN

CÔ TỊCH

Ta về đội nón mê đau
Đếm bao nhiêu nỗi sông sâu mà buồn
Bời bời cửa mắt sầu tuôn
Xa xôi có chảy về nguồn được không?
Tìm sâu trong những cánh đồng
Bước cao, bước nhọc, bước lồng vào đêm
Thân cong lúa ngả nỗi niềm
Mong dâng hiến một lưỡi liềm là xong
Người ta cấy hái thong dong
Tôi nay cấy hái phải trông mặt người
Đi trong miệng tiếng của đời
Bước không tránh nổi ngàn lời thị phi...

Thôi đành tĩnh lặng mà đi
Sông hào sảng cũng có khi vơi đầy
Áo nhăn một nhánh vai gầy
Đành buông mái tóc qua ngày Vậy thôi!
NN

Thứ Tư, 15 tháng 10, 2008

TẢN VĂN CỦA ĐINH THỊ BÍCH THI


BẤT CHỢT
Sân trường muà đông nắng vàng bất chợt. Có cô bé chạy và tìm bóng mát. Bất chợt một chiếc lá rơi.. rồi hai.. ba. Cô bé nhìn với vẻ thích thú và si mê. Cô lượm lặt nó. Rồi năm sáu…chín mười. Lá rơi hối hả, rơi nhanh quá!
Bé ngồi lặng thinh,, đưa mắt dõi theo chiếc lá chỉ mới ngả màu vàng đang rơi nghiêng trước gió. Gió thổi lạnh lùng như đang muốn cuốn đi sự sống mong manh của lá. Cây vẫn đứng đó, hững hờ, rồi chiếc lá hờn dỗi, muốn bay thật xa. Bất chợt một cảm giác bồi hồi, một cơn nhói của trái tim. Có lẽ thời gian trôi đi nhanh quá, nhũng kí ức trong lòng trỗi dậy mạnh mẽ hơn và cơn bão lòng vượt qua sức cản của lí trí. Bé nhớ về một thời tuổi thơ hồn nhiên, trong sáng. Nơi ấy, có cô bé với hai tính cách nắng và mưa. Nơi ấy bé thường lôi mọi người vào những trò nghich ngợm của mình. Đôi môi bé, nụ cười bé chưa bao giừ tắt. Nơi ấy, bé thích suy nghĩ, trầm tư đến lạ kì , không biết có phải người đẫ lớn hay chưa. Bất chợt bé nghĩ, mười hai năm sấp qua rồi ư? Cô bé vẫn tự hỏi và mắt dõi theo chiếc lá…Bé sợ lắm, sợ lá vô tình rời xa cây. Cũng như bé bất chợt nhận ra.
Một ngày mới bắt đầu, bé chạy thật nhanh lên cây bàng nhỏ. Hay quá! Bé thầm thì. Trời, bé cười rạng rỡ, nụ cười hồn nhiên của nhiều năm về trước đây ư! Khoảnh khắc ấy làm bé ngượng ngùng thay đổi hay chính bé làm cho chiếc lá lì lợm hổng chịu rơi.

ĐINH THỊ BÍCH THI
LỚP 12C TRƯỜNG THPT LÊ THÀNH PHƯƠNG
TUY AN PHÚ YÊN

Thứ Ba, 14 tháng 10, 2008

GÒ THÌ THÙNG AN XUÂN


Gò Thì Thùng và lễ hội đua ngựa, du xuân

Gò Thì Thùng nằm cách thị trấn Chí Thạnh chừng 17 km về hướng Tây. Đây là một địa danh nổi tiếng của chính quyền và nhân dân tỉnh Phú Yên. Trong những năm kháng chiến chống Mĩ cứu nước, Gò Thì Thùng được coi là vùng căn cứ cách mạng. Nơi đây đã từng chứng kiến nhiều trận đánh làm rúng động kẻ thù.

Ngày đó, trước sự lớn mạnh của kẻ thù, Tỉnh Phú Yên và Ban chỉ huy quân sự khu Năm quyết định đào địa đạo tại Gò Thì Thùng để chống giặc. Sau khi đã xác định được tầm quan trọng của khu căn cứ chiến lược này, ngày 10-5- 1964, Huyện đội và Tỉnh đội trực tiếp chỉ huy nhân dân các xã An Xuân, An Định, An Nghiệp…đào địa đạo. Ngày khởi công, đồng chí Trần Suyền, Bí thư Tỉnh uỷ Phú Yên bổ nhát cuốc đầu tiên; đồng chí Đỗ Tấn Cảnh trực tiếp chỉ huy công trình này. Ông Trà Cò, năm nay đã 75 tuổi, một tiểu đội trưởng từng tham gia đào địa đạo, kể lại: “cứ 5 giờ chiều là dân công tập trung đào đến 12 giờ khuya, mỗi tiểu đội một giếng, hết giếng này lại đến giếng kia. Mọi người dùng cuốc để đào rồi dùng cần giọt đưa đất lên. Vất vả nhưng ai cũng tham gia tích cực.” Sau một thời gian dài tập trung sức lực khơi thông lòng đất, đến tháng 8 năm 1965, địa đạo Gò Thì Thùng đã hoàn thành. Tổng chiều dài địa đạo là1948m xuyên qua Gò Thì Thùng , sâu 4,5m, rộng 0,8m. Toàn bộ địa đạo có 486 giếng, trên miệng giếng lấy gỗ đặt rầm, cách 20m chừa một cửa hông có nguỵ trang. Bên trên địa đạo đặt vọng gác có đài quan sát. Xung quanh địa đạo là một hệ thống dây thông hào chạy ngang dọc. Khi có địch ta xuất hiện để đánh, đánh xong thì rút xuống, địch không phát hiện và nhân dân tuyệt đối giữ bí mật an toàn.

Sau khi hoàn thành, địa đạo Gò Thì Thùng đã chứng kiến nhiều trận đánh ác liệt. Ngày 25-6-1966, địch đổ quân xuống cao nguyên An Xuân. Cuộc chiến đấu trên Gò Thì Thùng diễn ra suốt 2 ngày đêm. Bộ đội chủ lực của ta đã diệt 1030 tên Mĩ, bắn rơi và làm bị thương 9 máy bay – Với trận Gò Thì Thùng nhân dân Phú Yên đã lập chiến công vang dội, góp phần làm phá sản chiến lược “chiến tranh cục bộ” ở chiến trường miền Nam.

Hơn 40 năm trôi qua, trên cao nguyên An Xuân đã thay đổi rất nhiều. Địa đạo Gò Thì Thùng vẫn còn đó. Ngày nay chính quyền và nhân dân xã An Xuân cùng với các cơ quan chức năng đang tiến hành tu sửa để địa danh này sớm được công nhận là di tích lịch sử cấp quốc gia như ba địa đạo kia (Củ Chi – Tp HCM, Vĩnh Mốc – Quảng Trị, Phù Cát – Bình Định )

Hằng năm, cứ mỗi độ xuân về, người dân cao nguyên An Xuân lại rộn ràng mùa lễ hội. Trong đó đáng chú ý nhất là lễ hội đua ngựa truyền thống vào ngày mồng 9 tháng giêng trên Gò Thì Thùng. Lễ hội này đã có những dấu ấn riêng, khá đặc biệt, so với những lễ hội khác. Từ con người đến các chiến mã đều mang tính chất không chuyên như cây nhà lá vườn. Thế mà không khí của ngày hội hết sức náo nhiệt, thu hút được nhiềù du khách trong và ngoài tỉnh đên đây du xuân thưởng ngoạn. Những năm gần đây, ngày hội được Sở Văn hoá thông tin tỉnh Phú Yên đầu tư về vật chất con người, trường đua và giống ngựa nên tính chất ngày càng trở nên quy mô hơn. Hy vọng sẽ đáp ứng lòng mong mỏi mọi người cũng như nhu cầu vui xuân giải trí tự hào về một vùng đất lịch sử anh hùng của người dân nơi đây.

Chủ Nhật, 12 tháng 10, 2008

TRAO ĐỔI HỌC HÀNH THI CỬ


Nỗi đau lại tiếp nỗi đau.

12 giờ 15 phút ngày 10/4/2007 tôi nhận được cuộc điện thoại từ một em học sinh gọi báo vụ tai nạn thương tâm xảy ra tại dốc Bà Ền, xã An Hòa, huyện Tuy An, tỉnh Phú Yên. Nạn nhân của vụ tai nạn đó chính là những em học sinh của trường THPT Lê Thành Phương đang trên đường đến lớp. Có mặt kịp thời tại hiện trường tôi mới thấu được nỗi đau khi thấy năm nạn nhân nằm lăn dãy dụa trên đường là học sinh của tôi. Bốn em ra đi mãi mãi với hình hài không còn nguyên vẹn và một em phải nằm viện thời gian dài nhưng khả năng hồi phục chưa biết thế nào. Chàng thanh niên điều khiển chiếc xe tải đáng trách ấy đã chạy trốn và bây giờ đang ngồi trong nhà giam nhưng làm sao bù lại được sự mất mát lớn lao kia.

Quay ngược thời gian về quá khứ, nỗi đau tương tự như thế vẫn còn hiện hình nguyên vẹn khi truyền hình đưa tin vụ tai nạn đau lòng trên bến đò Chôm Lôm, xã Lãng Khê, huyện Con Cuông, tỉnh Nghệ An hôm ngày 7/10/2006. 19 sinh mạng là học sinh cấp II ngây thơ trong trắng đành phải nằm lại nơi này vĩnh viễn do sự sơ ý của một chàng thanh niên mới cầm lái hai chuyến đò. Trước đó 3 năm, ngày 19/5/2003, một ông già tuổi cao sức yếu cũng đã nhấn chìm 18 học sinh trong chuyến đò định mệnh trên bến Cà Tang ở làng Nông Sơn, Quế Trung, Quế Sơn, Quảng Nam.

Chỉ tính riêng những vụ tai nạn nghiêm trọng, những năm gần đây đã xảy ra nhiều vụ tai nạn thương tâm đáng tiếc mà nạn nhân không ai khác chính là những em học sinh ngày ngày cắp sách đến trường. Ngẫm mà đau, ngẫm mà xót xa cay đắng cho số phận người. Linh hồn các em được an ủi bằng khói hương của người thân nhưng nỗi đau của người thân biết bao giờ cho hết. Thử hỏi phần trách nhiệm đó thuộc về ai. Nước ta đã bước vào thời kì hội nhập, mong rằng sẽ có biện pháp khắc phục kịp thời để thời gian sau này đừng xảy ra những vụ tai nạn đau lòng như vậy.


ĐTT

Đã đăng Báo GDTD

Thứ Năm, 9 tháng 10, 2008

NHÀ THƠ TRẦN VẠN GIÃ


NHÀ THƠ TRẦN VẠN GIÃ
Sinh ngày 2/2/1945, tại Khánh Hoà, hội viên Hội Nhà văn Việt Nam, hội viên Hội Văn học Nghệ thuật Khánh Hoà.
Tác phẩm đã in:
- Hào khí quê ta - thơ – 1970
- Miên ca Hoà bình – thơ – NXB Nhân Sinh- 1971
- Tình yêu đẹp như bài thơ – thơ – NXB Hội Nhà văn – 1996
- Gió đưa khói bếp lên trời – thơ - Hội VHNT Khánh Hoà - 2004
- Trầm tư với lá – thơ – NXB Hội Nhà văn - 2006
- Trên chặng đường thánh giá – thơ – NXB Tôn Giáo -2006
- Lục bát Trần Vạn Giã – thơ – NXB Trẻ - 2007
-Lục bát nhà quê – thơ NXB Văn Nghệ - 2008
Nhà thơ Trần Vạn Giã hiện đang ở tại 135/19 Hương lộ Ngọc Hiệp – Nha Trang Khánh Hoà. Điện thoại 0905103990.
Ngày 8-10-2008 TVGiã đi công tác tại Phú Yên. Sau cuộc trò chuyện với nhà thơ, Đào Tấn Trực xin giới thiệu chùm thơ mới in trong tập Lục bát nhà quê, NXB Văn Nghệ ấn hành năm 2008.

CỔ TÍCH CÁT CỦA MẸ
Gió đùn cát. Cát thành làng
Cát không nuôi được vồng khoai lang sùng

Tay đong bơ gạo cuối cùng
Bão khô vẫn thổi khắp vùng cát khô

Lún sâu dưới tiếng chày vồ
Dưới vầng trăng chết dưới mồ người thân

Cát làng nóng bỏng dấu chân
Bao nhiêu gian khổ giành phần mẹ ta

Chuyện xưa…thời cũ quê nhà
Cát thành cổ tích đi qua đời Người.

Với ngọn cỏ khô
Lạy trời tôi đốt cỏ khô
Cỏ khô ngồi khóc trên mồ vô danh

Vô danh hay là hữu danh
Tro và củ đủ để thành bể dâu

Bóng đời ngã xuống hàng cau
Cỏ không níu được cơn đau kiếp người

Cỏ không níu được tháng Mười
Cho nên kẻ khóc người cười cỏ ơi

Khói bay về phía không lời
Tro bay về phía mặt trời lặmg câm

Trăm năn đến những ngàn năm
Xót tôi và cỏ mọc nhầm mồ ma.


Bình tâm không có gì nghiêm trọng phải không thơ

Cũng là cát bụi mà thôi
Chuyện đời xuống chó lên voi lẽ thường

Có gì mà phải giận, thương
Tôi ơi bắt bóng vô thường mà chi

có gì thịnh có gì suy
Bình tâm tôi vẫn củ mì nhà quê

Có gì khen có gì chê
Cũng là cát bụi trên mê lộ này

Thương câu: Phúc lục chẳng may
Theo tôi vác cái roi cày đuổi trâu.

Nhà quê tôi là nhà quê

Tôi là đất của quê nhà
Là than nướng những trái cà dái dê
Dạ thưa cứ khen và chê
Vẫn tôi: con của nhà quê suốt đời
Vẫn tôi là kẻ chịu chơi
Khinh thủ trưởng dởm trọng lời người xưa
Đại gia đổ chén cơm thừa
Mẹ quê bùn lội vẫn chưa no lòng
Đi trên trái đất trăm vòng
Vẫn không thấy được nia, nong …thuở nào

Rọi đời dưới đáy ước ao.

Xin lỗi mẹ thời con thất nghiệp

Mẹ ta bươn chải đó đây
Còn ta heo đất phay phay nuốt tiền
Một ngày mẹ về cõi tiên
Mồ côi dưới nắng ngoài hiên chiều chiều
Dây trầu héo lá hiu hiu
Rụng từng lá nhớ buồn thiu lá đời

Lá đời con rách cuộc chơi
Đổ sông vào rượu chém đời vào cây
Cuốc, liềm vũ điệu thân gầy
Ta con heo đất lưa đày mẹ ta

Bây giờ chỉ còn trong thơ
Không còn nghe tiếng mõ làng
Gõ khi lũ dữ đang tràn vỡ đê

Gõ khi hội khí nghĩa thề
Vân làng khinh lửa nồi kê than bòn

Gõ vào những giấc mộng con
Khúc Ly Tao đã hao mòn gỗ xưa

Mõ từng bão tố nắng mưa
sống cùng làng nước ngày xưa …bây giờ:
“ Bây giờ chỉ còn trong thơ
Ba hồi chín tiếng đâu ngờ chiêm bao!”

Với cỏ bên đường
Thì thôi về lại cố hương
Tôi là con của ruộng nương quê nhà
Sông còn ôm bãi chiều xa
Ong còn hút mật hoa cà vườn sau

Tha hương tôi đã bạc đầu
Chuyện đời muôn thuở nông sâu là thường
Trầm tư với cỏ bên đường
Níu chân tôi chạm hạt sương thuở nào

Về ngồi dưới bóng dừa cao
Ngồi nghe hồn của ca dao êm đềm
Ai ơi máu chảy về tim
Thơ tôi dân dã đi tìm nguồn xưa.

chùm thơ trên trích trong tập Lục bát nhà quê – thơ NXB Văn Nghệ
- 2008